Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 42/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 28/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 84/2017/TLST-HNGĐ ngày 29/5/2017, về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/7/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Trần Thị Tố L, sinh năm 1988, địa chỉ ấp T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1978, địa chỉ ấp T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện do bà Trần Thị Tố L lập ngày 03/5/2017 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa thì nguyên đơn bà Trần Thị Tố L trình bày như sau: Bà và ông Nguyễn Văn G kết hôn với nhau vào năm 2006 nhưng đến năm 2009 thì mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng kết hôn ngày 12/6/2009. Sau khi kết hôn sống với nhau rất hạnh phúc nhưng đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau với mức độ thường xuyên hơn nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 4 năm 2014 cho đến nay. Trong thời gian chung sống bà và ông Nguyễn Văn G có hai người con chung tên Nguyễn Thế K, sinh ngày 24/8/2007 và Nguyễn Thanh G, sinh ngày 26/10/2011 và hiện nay hai đứa con chung đang sống với bà. Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Nay bà Trần Thị Tố L yêu cầu Tòa án giải quyết   được ly hôn với ông Nguyễn Văn G. Về con chung: Tùy theo nguyện vọng của các con nếu theo bà thì bà đồng ý nuôi, nếu các con muốn ở với ông G thì bà cũng đồng ý và tại tòa hôm nay bà L cũng có nguyện vọng được nuôi hai đứa con chung là Nguyễn Thế K, Nguyễn Thanh G đến khi tròn 18 tuổi và không yêu cầu ông Nguyễn Văn G phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn G, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông G nhưng ông G không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà L và không đến tham gia phiên họp để công bố chứng cứ, phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa theo triệu tập.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[2]  Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 03/5/2017, bà Trần Thị Tố L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Văn G có nơi cư trú tại ấp T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa, bị đơn Nguyễn Văn G vắng mặt lần thứ hai không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Tố L:

[5] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Tố L và ông Nguyễn Văn G tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/6/2009 nên quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông G là hợp pháp. Nhưng sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường hay cãi nhau và mâu thuẫn kéo dài đến năm 2014 thì vợ chồng sống ly thân đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng cũng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng và bà L làm đơn khởi kiện để xin ly hôn tại Tòa án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức hòa giải để động viên vợ chồng bà L, ông G đoàn tụ với nhau, tuy nhiên phía ông G vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Như vậy, tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà L, ông G đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà L xin ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về con chung: Vợ chồng bà Trần Thị Tố L và ông Nguyễn Văn G có hai người con chung Nguyễn Thế K, sinh ngày 24/8/2007 và Nguyễn Thanh G, sinh ngày 26/10/2011, hiện nay cháu K, G đang sống chung với bà L. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế K và Nguyễn Thanh G đến khi thành niên. Xét yêu cầu của bà L là phù hợp với điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên của bà L cũng như nguyện vọng của cháu K và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Thế K, sinh ngày 24/8/2007 và Nguyễn Thanh G, sinh ngày 26/10/2011 cho bà Trần Thị Tố L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên.

[7] Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung: Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị Tố L xác định hiện nay có điều kiện kinh tế ổn định và đủ khả năng để nuôi dưỡng các con nên không yêu cầu ông Nguyễn Văn G cấp dưỡng cho con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không buộc ông Nguyễn Văn G cấp dưỡng cho cháu K, G.

[8] Tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Tố L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Trần Thị Tố L chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng. Ông Nguyễn Văn G không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị đơn Nguyễn Văn G vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho bị đơn G.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị Tố L được ly hôn với ông Nguyễn Văn G.

2. Về con chung: Giao cho bà Trần Thị Tố L trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà Trần Thị Tố L và ông Nguyễn Văn G là cháu Nguyễn Thế K, sinh ngày 24/8/2007 và Nguyễn Thanh G, sinh ngày 26/10/2011 đến khi thành niên (hiện nay cháu K, G sống chung với bà Trần Thị Tố L).

- Ông Nguyễn Văn G có quyền, nghĩa vụ thăm nom Nguyễn Thế K, Nguyễn Thanh G mà không ai được cản trở. Ông Nguyễn Văn G không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục Nguyễn Thế K, Nguyễn Thanh G của bà Trần Thị Tố L.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Tố L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị Tố L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị Tố L chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006315, ngày 25/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, bà L đã thực hiện xong.

5. Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với bị đơn Nguyễn Văn G vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án cho bị đơn Nguyễn Văn G.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:42/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về