Bản án 421/2018/HNGĐ-ST ngày 05/11/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA-TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 421/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 05 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2214/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 9 năm 2018 về việc "Xin ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 413/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoa N – Sinh năm 1980

Địa chỉ thường trú: 47, khu phố T, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ tạm trú: 230 đường GS1, khu phố N, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Trần S – Sinh năm 1977

Địa chỉ thường trú: 47, khu phố T, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai

(Ông S, bà N có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoa N trình bày:

Bà và ông S tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà và ông Sanh bất đồng quan điểm sống, vợ chồng tính tình không hợp nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông S, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông S.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

- Bị đơn - ông Nguyễn Trần S trình bày:

Ông và bà N tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nay bà N xin ly hôn thì ông đồng ý.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định.

Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý của đương sự, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà N. Về con chung: Không có. Về tài sản chung, nợ chung theo bà N, ông S trình bày không có, nên đề nghị không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà N, ông S có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà N, ông S theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà N, ông S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

[3] Bà N, ông S sau khi kết hôn chung sống với nhau hạnh phúc một thời gian, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà N trình bày do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng tính tình không hợp nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông S, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn. Tòa án đã nhiều lần thông báo về phiên hòa giải để tạo điều kiện hòa giải cho ông S, bà N hàn gắn đoàn tụ, nhưng bà N vẫn cương quyết xin ly hôn, cho thấy mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng. Hiện bà N xác định không còn tình cảm với ông S. Ngày 19/10/2018 ông S có bản tự khai đồng ý ly hôn với bà N. Xét thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, việc bà N xin ly hôn với ông S là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Không có.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà N, ông S trình bày tài sản chung, nợ chung là không có, nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bà N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm bà N đã nộp tại Biên lai số 009251 ngày 10/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Bà N đã nộp đủ án phí.

 [7] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 203; Điều 220; khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Hoa N và ông Nguyễn Trần S.

Về nuôi con chung: Không có

Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà N, ông S trình bày tài sản chung, nợ chung là không có, nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Bà N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm bà N đã nộp tại Biên lai số 009251 ngày 10/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Bà N đã nộp đủ án phí.

Bà N, ông S được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 421/2018/HNGĐ-ST ngày 05/11/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:421/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về