Bản án 418/2018/DS-ST ngày 05/07/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 418/2018/DS-ST NGÀY 05/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 7 năm 2018, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 40/2018/TLST-DS ngày 25/01/2018, về việc: “Tranh chấp về Hợp đồng vay tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2018/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2018, giữa:

1.Nguyên đơn: Ngân hàng V

Địa chỉ trụ sở: đường L, phường L, quận Đ, Thành phố H

Địa chỉ liên lạc: đường P, Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Chí D; Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H hoặc ông Nguyễn Văn T1; (Có mặt)

Là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 4429/2018/UQ- VPB ngày 28/02/2018).

2.Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1978 (Vắng mặt)

Địa chỉ: phường P, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 28 tháng 8 năm 2017 và tại các bản tự khai, nguyên đơn Ngân hàng V (Sau đây gọi là Ngân hàng) do bà Nguyễn Thị H là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 13/8/2015 bà Nguyễn Ngọc T ký Giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm, Hợp đồng tín dụng số 4216902 với Ngân hàng V vay số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu) với lãi suất thỏa thuận 24%/năm để tiêu dùng cá nhân, thời hạn vay 48 tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Nguyễn Ngọc T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký. Phía Ngân hàng đã nhiều lần gửi thông báo, liên hệ, làm việc trực tiếp và tạo điều kiện cho bà T thanh toán, nhưng bà T cố tính tránh né, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Quà trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 05/7/2018, bà T đã thanh toán được tổng số tiền là: 6.527.000 đồng (trong đó thanh toán nợ gốc là 2.428.074 đồng, thanh toán nợ lãi là 4.143.926 đồng).

Nay, Ngân hàng V khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T thanh toán tổng số tiền còn thiếu tính đến ngày 05/7/2018 là 400.008.319 (Bốn trăm triệu không trăm lẻ tám ngàn ba trăm mười chín) đồng trong đó nợ gốc là 197.571.926 đồng (một trăm chín mươi bảy triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn chín trăm hai mươi sáu) và nợ lãi là 202.436.393 (hai trăm lẻ hai triệu bốn trăm ba mươi sáu ngàn ba trăm chín mươi ba) đồng. Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T thanh toán một lần ngay khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, bà T phải thanh toán cho Ngân hàng V tiền lãi phát sinh theo quy định tại các hợp đồng đã ký kết từ ngày 06/7/2018 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị H là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng V vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ngoài ra, bà H xác định chỉ yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T thanh toán số tiền còn nợ như trên, không yêu cầu trách nhiệm liên đới vợ chồng vì đây là hợp đồng tín dụng cho vay tiêu dùng hợp pháp của cá nhân bà Nguyễn Ngọc T.

* Bị đơn bà Nguyễn Ngọc T đã được Tòa án tiến hành tống đạt, niêm yết và đăng báo triệu tập hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Giấy triệu tập để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 10/5/2018 và 28/5/2018 nhưng bà T không đến làm việc và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình. Vì vậy, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T. Tòa án cũng tiến hành tống đạt và niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2018/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2018/QĐST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2018/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2018 nhưng bà Nguyễn Ngọc T vẫn vắng mặt tại phiên tòa hôm nay.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, TP. Hồ Chí Minh:

Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, T ký Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Đi với nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, Điều 71 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Đi với bị đơn bà Nguyễn Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung:

Căn cứ các Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng.

Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn Ngân hàng V có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Ngọc T thanh toán số tiền còn thiếu là 400.008.319 (Bốn trăm triệu không trăm lẻ tám ngàn ba trăm mười chín) đồng. Bị đơn bà Nguyễn Ngọc T sinh năm 1978 có địa chỉ cư trú tại phường P, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản là loại tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn, bà Nguyễn Ngọc T đã được tống đạt, niêm yết và đăng báo triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn xác nhận việc cho bà T vay để tiêu dùng cá nhân nên chỉ yêu cầu cá nhân bà T thanh toán số tiền còn nợ như trên, không yêu cầu trách nhiệm liên đới vợ chồng nên đề nghị Tòa án không triệu tập chồng của bà T vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Xét bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bà T nhưng vẫn không có ý kiến phản đối. Do đó, Tòa án không triệu tập chồng của bà T tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Tại phiên tòa nguyên đơn Ngân hàng V khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Ngọc T phải thanh toán tổng số tiền còn thiếu tính đến ngày 05/7/2018 là 400.008.319 (Bốn trăm triệu không trăm lẻ tám ngàn ba trăm mười chín) đồng trong đó nợ gốc là 197.571.926 đồng (một trăm chín mươi bảy triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn chín trăm hai mươi sáu) và nợ lãi là 202.436.393 (hai trăm lẻ hai triệu bốn trăm ba mươi sáu ngàn ba trăm chín mươi ba) đồng. Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T thanh toán một lần ngay khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, bà T phải thanh toán cho Ngân hàng V tiền lãi phát sinh theo quy định tại các hợp đồng đã ký kết từ ngày 06/7/2018 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Theo kết quả trả lời Phiếu yêu cầu xác minh số 53/2018/PYCXM ngày 30/01/2018 của Công an phường P, Quận 7 thì: “Đương sự Nguyễn Ngọc T có hộ khẩu Thường trú tại phường P, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh không thực tế cư ngụ tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ từ năm 2014 đến nay”.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện các thủ tục tống đạt và đăng báo triệu tập hợp lệ cho bị đơn bà Nguyễn Ngọc T các văn bản tố tụng của Tòa án gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án số 40/2018/TBTL-DS ngày 25/01/2018; giấy triệu tập và thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 10/5/2018; giấy triệu tập và thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày ngày 28/5/2018; giấy triệu tập tham gia phiên tòa và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2018/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2018/QĐST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2018/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2018 nhưng bị đơn bà Nguyễn Ngọc T vắng mặt không lý do nên căn cứ vào khoản 4 Điều 91, Điều 94, Điều 95 và Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn bà Nguyễn Ngọc T đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình và phải chịu hậu quả của việc vắng mặt, do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngân hàng V hoạt động các lĩnh vực tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần (Mã số doanh nghiệp: 0100233583) của Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố H cấp. Căn cứ Giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm, Hợp đồng tín dụng số 4216902 ngày 13/8/2015 giữa Ngân hàng với bà Nguyễn Ngọc T, thì Ngân hàng cấp hạn mức tín dụng cho bà T với số tiền 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng, thời hạn vay 48 tháng kể từ ngày bà T nhận được tiền vay; lãi suất thỏa thuận 24%/năm. Mục đích vay: Tiêu dùng cá nhân.

Xét, chủ thể ký kết, nội dung và hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 117, Điều 118, Điều 119 và điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng nên buộc các bên phải thực hiện theo thỏa thuận Hợp đồng.

Thc hiện Hợp đồng, bà Nguyễn Ngọc T đã nhận đủ tiền vào ngày 13/8/2015. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Nguyễn Ngọc T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký. Phía Ngân hàng đã nhiều lần gửi thông báo, liên hệ, làm việc trực tiếp và tạo điều kiện cho bà T thanh toán, nhưng bà T cố tính tránh né, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 05/7/2018, bà T đã thanh toán được tổng số tiền là: 6.527.000 đồng (trong đó thanh toán nợ gốc là 2.428.074 đồng, thanh toán nợ lãi là 4.143.926 đồng), nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả làm một lần số tiền nợ gốc và tiền lãi đến ngày 05/7/2018 là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Căn cứ Điều 357 của Bộ luật Dân sự 2015:

“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.” Căn cứ Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Tờng vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Căn cứ Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của ngân hàng nhà nước thì lãi suất cơ bản tính từ ngày 01/12/2010 là 9%/năm. Như vậy, lãi suất cho vay trong hạn và lãi suất cho vay quá hạn tối đa là 13,5%/năm, tương đương 1,125%/tháng.

Căn cứ Khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Thỏa thuận lãi suất vượt quá 13,5%/năm là cao so với quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên Ngân hàng V có chức năng hoạt động tín dụng nên phần lãi suất do các bên thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Do vậy Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền lãi phát sinh theo Giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm, Hợp đồng tín dụng số 4216902 ngày 13/8/2015 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật và có cơ sở nên chấp nhận.

Về thời gian trả nợ: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền gốc, tiền lãi tính đến hết ngày 05/7/2018 là 400.008.319 (Bốn trăm triệu không trăm lẻ tám ngàn ba trăm mười chín) đồng, tất cả trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét yêu cầu của nguyên đơn không trái quy định pháp luật nên có cơ sở chấp nhận.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục trả tiền lãi phát sinh trên nợ gốc chưa thanh toán theo lãi suất do hai bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm, Hợp đồng tín dụng số 4216902 ngày 13/8/2015 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ. Xét thấy yêu cầu này của nguyên đơn phù hợp với thỏa thuận hợp đồng nên chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do bị đơn có nghĩa vụ phải trả nợ cho nguyên đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn Ngân hàng V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí là 8.465.692 (tám triệu bốn trăm sáu mươi lăm ngàn sáu trăm chín mươi hai) đồng.

Đi với lệ phí thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, nguyên đơn tự nguyện chịu.

[6] Quyền kháng cáo: Ngân hàng V, bà Nguyễn Ngọc T có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 266, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điều 357, Điều 466, Điều 468 và điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

X:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Ngọc T.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn 2.1. Buộc bị đơn bà Nguyễn Ngọc T có nghĩa vụ phải thanh toán cho Ngân hàng V tổng số tiền tính đến ngày 05/7/2018 là 400.008.319 (Bốn trăm triệu không trăm lẻ tám ngàn ba trăm mười chín) đồng, tất cả trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 06 tháng 7 năm 2018, bà Nguyễn Ngọc T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị vay vốn kiêm giấy yêu cầu bảo hiểm kiêm Hợp đồng tín dụng số 4216902 ngày 13/8/2015 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2.2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bị đơn bà Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí là 20.000.333 (hai mươi triệu ba trăm ba mươi ba) đồng.

- Nguyên đơn Ngân hàng V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.465.693 (tám triệu bốn trăm sáu mươi lăm ngàn sáu trăm chín mươi ba) đồng theo biên lai thu số AA/2017/0025076 ngày 25/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Nguyên đơn tự nguyện chịu lệ phí thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng số tiền là 3.225.000 (ba triệu hai trăm hai mươi lăm ngàn) đồng. Ngân hàng đã thanh toán xong theo Hóa đơn bán hàng số 0067317 ngày 21/3/2018 của cơ quan Tờng trú Đài tiếng nói Việt Nam và Giấy biên nhận không số ngày 21/3/2018 của Báo Pháp luật Việt Nam.

3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

4.Quyền kháng cáo:

Báo cho nguyên đơn được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng bị đơn bà Nguyễn Ngọc T vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 418/2018/DS-ST ngày 05/07/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:418/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về