Bản án 414/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 414/2019/HS-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 504/2019/TLST-HS, ngày 13/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4789/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Tương Tô T (tên gọi khác: không có); giới tính: nam; sinh năm: 1963, tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: 501/16A đường XVNT, Phường A, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở trước khi bị bắt: 484 Bình Quới, Phường 28, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lái xe taxi; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tương T (đã chết) và bà Bùi Thị S – sinh năm: 1944; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Hồ Thị N – sinh năm: 1965, chưa có con; Tiền án: không; tiền sự: không. Về nhân thân: Năm 1985 và năm 1995 bị Công an quận Q bắt giữ điều tra về hành vi “Trộm cắp tài sản của công dân”; Năm 1981 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/3/2019. (Có mặt tại phiên tòa) - Người bào chữa: Ông Nguyễn Ngọc P, luật sư thuộc Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn ĐN, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1/ Ông Fan J, sinh năm: 1987;

Quốc tịch: Trung Quốc; Hộ chiếu số: G53413763

Đa chỉ tạm trú tại Việt Nam: 373/45 PNL, phường PNL, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

2/ Bà Debra Lynn J, sinh năm: 1953;

Quốc tịch: Mỹ; Hộ chiếu số: 598547162

Đa chỉ tạm trú tại Việt Nam: 8-15 TĐT, phường D, Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

ơng Tô T là nhân viên lái xe cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Taxi SGHL, lợi dụng việc đón, trả khách đi taxi có người nước ngoài nên T đã thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 12 giờ, ngày 12/12/2018, Tương Tô T điều khiển xe taxi biển số 51F-811.23 đón 06 người khách quốc tịch Trung Quốc từ giao lộ đường CMT – ND (thuộc Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh) đến số 160 đường CQ, phường NCT, Quận W. Khi đến trước địa chỉ 133 đường CQ, T dừng xe cho khách xuống xe. Khi những người khách đi cùng xe đã xuống xe, chỉ còn ông Fan J ngồi lại ở ghế trước ở lại để trả tiền xe. Khi ông Fan J lấy tiền loại Việt Nam đồng trong ví ra để trả tiền xe là 17.000 đồng thì T đưa ra trước mặt ông Fan Jing một bao thư có viết chữ số tiền trên, làm sấp tiền của ông Fan J rơi xuống sàn xe. Khi T cúi xuống nhặt tiền giúp thì thấy một số tờ tiền mệnh giá 500.000 Việt Nam đồng nằm ở khe giữa, dưới tấm lót để chân tại vị trí ông Fan J ngồi nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt. Khi ông Fan J kiểm tra lại tiền thì phát hiện bị thiếu tiền nên không đồng ý xuống xe. Lúc này, T lấy cây tuýp sắt cầm trên tay, quơ đe dọa và đuổi ông Fan J xuống xe, tuy nhiên ông Fan J không đồng ý xuống xe, T điều khiển xe chạy thẳng về hướng giao lộ NCT – CQ trong tình trạng cánh cửa xe ô tô phía sau bên phải vẫn chưa đòng nên Fan J hoảng sợ dùng tay vỗ vào cửa xe ra hiệu cho T dừng xe. Khi đến giao lộ NCT – CQ, T dừng xe cho Fan J xuống xe. Sau đó, T chạy thẳng ra đường THĐ và kiểm tra thấy số tiền chiếm đoạt được là 5.000.000 đồng nên đem về nhà cất giấu.

Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, ông Fan J đến Công an phường CNT báo, đến ngày 13/12/2018, Cơ quan công an đã truy tìm được T và thu hồi được số tiền T đã chiếm đoạt.

Vụ thứ hai: Khoảng 17 giờ ngày 07/3/2019, Tương Tô T điều khiển xe taxi đón bà Debra Lynn J cùng chồng (cùng quốc tịch Mỹ) trên đường Hàm Nghi đến khách sạn Sheraton tại đường Đông Du, Quận W. Bà Debra Lynn J lên xe ngồi ghế sau, đặt túi xách lên đùi, còn chồng bà ngồi ghế trước xe. T điều khiển xe taxi đến khu vực công trường tại số 6 đường Hai Bà Trưng, Quận W thì dừng xe và yêu cầu vợ chồng bà Debra Lynn J xuống xe đi bộ về khách sạn. Lúc này, đồng hồ taxi báo cước là 24.000 đồng, chồng bà Johnson đưa cho T tờ tiền mặt mệnh giá 100.000 Việt Nam đồng nhưng T nói không có tiền lẻ để thối lại. Sau đó, T xoay người về phía sau, tay phải của T cầm tờ báo có ghi số “24.000” đưa ra trước mặt bà Johnson khiến che khuất tầm nhìn của bà Johnson. Lúc này, T lấy tay trái cho vào túi xách của bà Johnson đang để trên đùi nhưng bà Johnson phát hiện ra nên giật túi xách lại. T tiếp tục cho tay vào túi xách của bà Johnson lần thứ hai thì lấy được một xấp tiền nhưng bị bà Johnson nắm tay đẩy ra. Khi bà Johnson xuống xe thì phát hiện bị mất số tiền 10.000.000 Việt Nam đồng nên đã đến Công an phường D, Quận W trình báo.

Đến 23 giờ, ngày 07/3/2019, Tương Tô T đến Công an phường D, Quận W trình diện và giao nộp lại 10.000.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Tương Tô T khai nhận toàn bộ hành vi đã thiện hiện như nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 367/CT-VKS-P2 ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Tương Tô T về các tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 và tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng theo nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi luận tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Tương Tô T mức án từ 03 đến 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” và mức án từ 01 đến 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, đề nghị xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự trong vụ án theo quy định pháp luật.

Luật sư Nguyễn Ngọc Phát trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo như sau:

- Luật sư thống nhất về tội danh “Trộm cắp tài sản” mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố trong vụ án.

- Luật sư không thống nhất về tội danh cũng như tình tiết định khung về tội “Cướp tài sản” mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự, bởi các lý do: Hành vi cầm cây tuýp sắt của bị cáo không làm cho ý chí của bị hại tê liệt để lâm vào tình trạng không thể chống cự được, bị hại lúc đó vẫn còn cãi vả với bị cáo về số tiền và bị cáo cầm cây tuýp sắt để dọa cho bị hại xuống xe; xét về tương quan lực lượng thì thời điểm đó phía bên bị hại là đông người và bị hại là người cao to, bị cáo vì sợ nên mới cho xe chạy, khi bị hại yêu cầu dừng xe bị cáo mới dừng lại. Bị hại tự làm rớt tiền chứ không phải do bị cáo tác động và bị hại không thực hin việc tìm kiếm tiền, bị cáo chỉ thấy 1 tờ 500.000 đồng chứ không biết tổng số tiền là bao nhiêu. Do đó, hành vi của bị cáo chỉ cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, kết hợp với hành vi ngày 07/3/2019 thì bị cáo phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Luật sư đề nghị xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: Năm 2014 bị cáo tham gia rượt đuổi truy bắt cướp và được Giám đốc Công an Thành phố tặng Giấy khen, thuộc tình tiết “Có thành tích xuất sắc sản xuất hoặc công tác” theo điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo bị bệnh tim phải phẫu thuật và uống thuốc điều trị suốt đời theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt.

Về đối đáp của đại diện Viện kiểm sát: Có thể bị hại vô ý làm rớt tiền trên xe, nhưng tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận sau khi thấy tiền rớt trên xe, vì muốn chiếm đoạt số tiền này nên mới lấy tuýp sắt cầm trên tay để đe dọa bị hại xuống xe khi đó trên xe chỉ còn bị cáo và bị hại, do bị hại không chịu xuống mà vẫn ngồi trên xe nên bị cáo mới cho xe chạy trong khi cửa xe vẫn đang mở, khiến bị hại hoảng loạn mới đập tay yêu cầu dừng xe là thể hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội Cướp tài sản là có cơ sở. Về tình tiết giảm nhẹ mà Luật sư đề nghị áp dụng do bị cáo được tặng Giấy khen và bị bệnh tim đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định thương tật cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 12 giờ, ngày 12/12/2018, Tương Tô T điều khiển xe taxi biển số 51F-811.23 đón 06 người khách quốc tịch Trung Quốc từ giao lộ đường CMT – ND (thuộc Quận W, Thành phố Hồ Chí Minh) đến số 160 đường CQ, phường NCT, Quận W. Khi dừng xe cho khách xuống xe và chờ ông Fan J thanh toán tiền cước taxi, lợi dụng việc ông Fan J làm rơi tiền xuống sàn xe, Tương Tô T dùng tuýp sắt đe dọa và đuổi ông Fan J xuống xe nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền bị rơi. Khi ông Fan J không đồng ý xuống xe vì phát hiện tiền bị thiếu và lúc này cửa xe phía sau vẫn đang mở nhưng T vẫn tiếp tục cho xe chạy khiến ông Fan J hoảng sợ dùng tay vỗ vào cửa xe ra hiệu cho T dừng xe. Sau khi ông Fan J xuống xe, T lập tức điều khiển xe di chuyển đến địa điểm khác và kiểm tra thấy số tiền chiếm đoạt được là 5.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội danh “Cướp tài sản”, thuộc tình tiết định khung là “Sử dụng vũ khí nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Vụ thứ hai: Khong 17 giờ ngày 07/3/2019, Tương Tô T điều khiển xe taxi đón bà Debra Lynn J cùng chồng (cùng quốc tịch Mỹ) trên đường Hàm Nghi đến khách sạn Sheraton tại đường Đông Du, Quận W. Khi đến khu vực công trường tại số 6 đường Hai Bà Trưng, Quận W thì T dừng xe và yêu cầu vợ chồng bà Debra Lynn J xuống xe đi bộ về khách sạn. Lúc này, T dùng thủ đoạn ghi số tiền lên tờ báo và đưa lên cho bà Johnson xem. Lợi dụng việc bà Johnson bị tờ báo che khuất tầm nhìn đối với túi xách, T đã lấy tay cho vào túi xách của bà Johnson đang để trên đùi và lén lút chiếm đoạt số tiền là 10.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội danh “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Từ những lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy Cáo trạng truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời, không chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư đề nghị xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” đối với hành vi thực hiện vào ngày 12/12/2018.

Hành vi của bị cáo là liều lĩnh, táo bạo, nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản và sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch của Việt Nam. Xét đến tính chất cũng như hậu quả của các hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo được Công an Thành phố Hồ Chí Minh tặng Giấy khen về thành tích khi tham gia truy bắt cướp và hiện tại bị cáo đang bị bệnh tim. Do đó, cần xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng đối với vụ án “Trộm cắp tài sản”, do bị cáo đã tự giác đến cơ quan Công an để đầu thú và giao trả tài sản đã chiếm đoạt cho bị hại nên được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Các vấn đề khác:

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 cây tuýp sắt bằng kim loại dài khoảng 59,5cm: Xét các vật chứng này đều không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với vật chứng là 01 tờ báo “Tuổi Trẻ”, tại trang 18 có ghi số “24.000”, có chữ ký của Tương Tô T: cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án;

- Đối với số tiền 5.000.000 đồng là tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại nên cần trả lại cho bị hại ông Fan J theo đúng quy định.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Tương Tô T: 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản” và 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 08/3/2019.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 cây tuýp sắt bằng kim loại dài khoảng 59,5cm, đường kính khoảng 1,7cm;

(Tang vật theo Quyết định chuyển vật chứng số 78/QĐ-VKS-P2 ngày 15/10/2019 và Biên bản giao nhận tang tài vật số 30/20 ngày 15/10/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Trả lại cho bị hại Fan J số tiền 5.000.000 đồng (đã nộp kho bạc Nhà nước tài khoản số 39490905977500000).

- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được niêm yết hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 414/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản

Số hiệu:414/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về