Bản án 413/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 413/2019/HS-ST NGÀY 23/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 394/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 425/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Hòa T, sinh năm 1993 tại thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 538A/1, tổ 1, khu phố C, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hòa Đ, sinh năm 1946 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1955; tiền án; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 14/8/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Lê Thị N, sinh năm 1973; thường trú: Tổ 3, khu phố T, phường T, thị xã t, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Phan Văn T, sinh năm 1969; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hòa T là đối tượng sử dụng ma túy đá; khoảng 08 giờ ngày 14/8/2019, Nguyễn Hòa T đi đến khu vực chợ L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh mua của người đàn ông tên C không rõ nhân thân, lai lịch 01 gói nylon ma túy đá với giá tiền 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T dùng băng keo hai mặt dính vào trong ống quần Jean đang mặc. Vào khoảng 11 giờ cùng ngày, Công an phường T tuần tra, phát hiện thấy Nguyễn Hòa T điều khiển xe mô tô biển số 61E1-738.50 ở khu vực trước nhà số 234/21/5 đường DT743, khu phố Đ, phường T, thị xã D, có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe, kiểm tra phát hiện trong ống quần Jean của T có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá nên tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; xe mô tô biển số 61E1-738.50.

Căn cứ kết luận giám định số 624/MT-PC09 ngày 22/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5205 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông tên Chiến bán ma túy cho bị cáo T hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với xe mô tô biển số 61E1-738.50 là tài sản của bà Lê Thị N, không biết T sử dụng xe vào việc phạm tội, đã trả lại xe cho bà N.

Tại cáo trạng số 412/CT-VKS ngày 06 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Hòa T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Hòa T mức án từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bỳ thư đã niêm phong bên trong chứa 0,4543 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung: Nguyễn Hòa T sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine. Khoảng 11 giờ ngày 14/8/2019, trước nhà số 234/21/5 đường DT743, khu phố Đ, phường T, thị xã D, Công an phường T tuần tra, phát hiện Nguyễn Hòa T có dấu hiệu khả nghi nên yêu cầu dừng xe, phát hiện trong ống quần Jean của Thuận có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, Thuận khai nhận đó là ma túy đá nên lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Căn cứ kết luận giám định số 624/MT-PC09 ngày 22/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5205 gam, loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo tàng trữ 01 gói ma túy Methamphetamine, trọng lượng 0,5205 gam đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 412/CT–VKS ngày 06 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo nghiện ma túy, chưa có tiền án tiền sự.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,4543 gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với người đàn ông tên C bán ma túy cho bị cáo T hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

[10] Đối với xe mô tô 61E1-738.50 là tài sản của bà Lê Thị N, bà N không biết T sử dụng xe vào mục đích phạm tội nên đã trả lại xe trên cho bà N.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hòa T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hòa T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,4543 gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2019, búc lục 71).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hòa T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 413/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:413/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về