Bản án 41/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Thanh V (tên gọi khác Phạm Công V), Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1970 tại thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối 7, thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Công Lục (Chết); con bà: Nguyễn Thị Tâm, sinh năm 1933; vợ: Nguyễn Thị Trà My, sinh năm 1981 (Đã ly hôn), con: có 01con sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Ngày 26/4/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù vào tháng 7/2004.

+ Ngày 18/5/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 6 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 BLHS năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù vào tháng 30/6/2005.

+ Ngày 18/5/2015 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 5 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù vào tháng 24/02/2019.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2021 đến nay, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

*Người làm chứng: anh Đậu Đình Hào, sinh năm 1965; Trú tại: Khối 7, thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 10/4/2021, Phạm Thanh V; sinh năm 1970, trú tại: khối 7, thị trấn Đô Lương, Đô Lương, Nghệ An đi bộ từ nhà của V ra khu vực cổng nhà thờ giáo thuộc khối 7 – thị trấn Đô Lương, Đô Lương tìm hỏi mua ma túy về để sử dụng. Tại đây, V gặp một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể. V hỏi người đàn ông này “có hàng không, để cho ba trăm”, ý của V hỏi người đàn ông này có ma túy heroine không, bán cho V ba trăm nghìn đồng. Người đàn ông đó trả lời: “có, đưa tiền đây”. V đưa cho Người đàn ông 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Người đàn ông cầm tiền rồi lấy từ trong túi quần bên phải phía trước người đàn ông đang mặc ra hai gói ma túy (một gói bằng giấy màu trắng, một gói được gói bằng vỏ bao thuốc lá màu tím than, bên trong hai gói đều chứa ma túy heroine) đưa cho V. V cầm hai gói ma túy vừa mua được ở trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ về nhà V để sử dụng. Khi đến khu vực đường lối giáp đê Tả Lam thuộc khối 7 – thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương thì V bị tổ công tác Đội cảnh sát giao thông trật tự, phòng PC06 Công an tỉnh Nghệ An phối hợp với Công an huyện Đô Lương yêu cầu kiểm tra hành chính. Lúc này khoảng 11 giờ 30 phút ngày 10/4/2021, V đã thả hai gói ma túy đang cầm nói trên xuống mặt đất tại nơi V đứng. Lực lượng Công an phát hiện, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và đưa Phạm Thanh V về trụ sở để làm việc.

Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 10/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại và xác định: Chất bột màu trắng có trong gói nhỏ màu trắng thu giữ của Phạm Thanh V có khối lượng là 0,109g (không phẩy một trăm linh chín gam) được ký hiệu là A1; chất bột màu trắng có trong gói nhỏ giấy vỏ bao thuốc lá màu tím than thu giữ của Phạm Thanh V có khối lượng là 0,224g (không phẩy hai trăm hai tư gam) được ký hiệu A2.

Tại bản kết luận kết luận giám định số 567/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Hai mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu A1, A2) thu giữ của Phạm Thanh V gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Thanh V có tổng khối lượng là 0,333 g (không phẩy ba trăm ba mươi ba gam)”. Số ma túy thu giữ của Phạm Thanh V quá trình giám định đã sử dụng hết.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công An huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã thu giữ của Phạm Thanh V: 01 (một) gói nhỏ bằng giấy màu trắng, kích thước (0,5x1)cm, bên trong chứa 0,109g (không phẩy một trăm linh chín gam) ma túy Heroine; 01 (một) gói nhỏ bằng giấy vỏ bao thuốc lá màu tím than, kích thước (1x1,5)cm, bên trong chứa 0,224g (không phẩy hai trăm hai mươi bốn gam) ma túy Heroine.

Toàn bộ số ma túy Heroine thu giữ của Phạm Thanh V đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô lương gửi đi giám định tại phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An đã được giám định hết.

Vật chứng còn lại hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đô Lương gồm: 01 (một) phong bì thư màu nâu của Công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23cm, được niêm phong theo đúng quy định, bên trong chứa vật chứng còn lại là vỏ phong bì niêm phong ban đầu, vỏ giấy màu trắng, vỏ bao thuốc lá màu tím than thu giữ của Phạm Thanh V.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKS-ĐL ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố Phạm Thanh V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thanh V từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.

Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 293, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thanh V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Phạm Thanh V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 10/4/2021, tại khu vực đường lối giáp đê Tả Lam thuộc Khối 7, thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Bị cáo Phạm Thanh V đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,333 gam ma túy (Heroine) mục đích sử dụng thì bị bắt giữ. Như vậy hành vi của Phạm Thanh V đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Đây là vụ án thuộc loại rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, gây tâm lý bất an trong xã hội, bị cáo V được sinh ra trong gia đình lao động nhưng không tu chí làm ăn mà đua đòi nghiện ngập nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bản thân bị cáo là đối tượng hình sự có nhân thân rất xấu, đã từng 02 lần bị xử phạt tù về tội “Đánh bạc”; 01 lần bị xử phạt tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chính vì vậy đưa bị cáo ra xét xử công khai tại phiên toà hôm nay và lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, có đối tượng V khai nhận đã mua ma tuý nhưng không biết tên tuổi địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đô Lương đã niêm phong bên trong có chứa vỏ giấy màu trắng, vỏ bao thuốc lá màu tím than, vỏ phong bì niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

[8] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội;

buộc bị cáo V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Phạm Thanh V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Phạm Thanh V 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (10/4/2021).

2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên trong là vỏ giấy màu trắng, vỏ bao thuốc lá màu tím than và vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

(Vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Phạm Thanh V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Phạm Thanh V có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 27/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về