Bản án 41/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST- HS ngày 19 tháng 3 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lương Tuấn L, sinh năm 1988; ĐKHKTT và cư trú: Số 128 NTM, phưng B, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Hữu M và bà Vũ Thị K; Có vợ là Bùi Thị A (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2011.

Tiền án: Bản án số 189 ngày 25/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương , xử phạt Lương Tuấn L 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2019.

Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 317 ngày 30/3/2004 của Công an thành phố Hải Dương xử phạt bằng hình thức phạt tiền 100.000đ về hành vi Cưỡng đoạt tài sản. Nộp tiền phạt ngày 09/4/2004.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 240 ngày 17/7/2006 của Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Nộp tiền phạt ngày 17/8/2006.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 126 ngày 28/02/2012 của Công an phường B, thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000đ về hành vi đánh bạc. Nộp tiền phạt ngày 28/02/2012 - Quyết định số 1185 ngày 25/6/2012 của Chủ tịch UBND thành phố Hải Dương áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 25/5/2014.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/01/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; Có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Anh Vũ Sơn Tr, sinh năm 1984 Địa chỉ: Số 7B/19 CT, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Cao Ngọc Th, sinh năm 1991 Địa chỉ: 56 NTM, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Đình V, sinh năm 1965 Địa chỉ: 31 CD, phường Tr, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ 30 phút ngày 17/11/2020, Nguyễn Văn H là bạn quen biết với Lương Tuấn L điều khiển xe máy Piaggo Liberty màu vàng nhạt (không xác định được biển số) đến nhà đón L đi làm tiếp thị nước giặt xả quần áo tại phố CT, phường N, thành phố H. Khi đi đến nhà anh Vũ Sơn T ở số 7B/19 CT, H và L thấy khóa cửa, trên tường trước cửa nhà anh T có lắp một cục nóng điều hòa nhãn hiệu LG, màu trắng nên H và L rủ nhau lấy trộm cục nóng điều hòa này. L lấy tua vít trong cốp xe của H, tháo ốc vít giá đỡ ra và nhấc cục nóng điều hòa xuống, bê đặt lên yên xe mô tô rồi H điều khiển xe chở L ngồi sau mang cục nóng đến khu vực gầm cầu P, phường N, thành phố H cất giấu. Sau khi biết hành vi trộm cắp tài sản bị phát hiện, khoảng 18 giờ 00 phút ngày 18/11/2020, Huy điều khiển xe máy Liberty chở L đến gầm cầu P lấy cục nóng điều hòa đến trả lại anh T.

Cùng ngày, anh T đã giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an TP Hải Dương 01 cục nóng điều hòa nhãn hiệu LG V10ENHU, năng suất lạnh 9.200 BTU/h, màu trắng.

Tại kết luận định giá tài sản số 99 ngày 16/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Hải Dương xác định, trị giá cục nóng điều hòa là 5.700.000đ.

Ngoài việc cùng Nguyễn Văn H trộm cắp tài sản tại nhà anh Vũ Sơn T nêu trên, L còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như sau: Khoảng 6 giờ 45 phút ngày 13/01/2021, Lương Tuấn L đi bộ đến dãy trọ nhà số 56 NTM, phường B, thành phố H, thấy cổng vào dãy trọ mở, L vào trong sân thấy trước cửa phòng số 3 của anh Cao Ngọc Th ở số 30 PBC, phường C, Thành phố H dựng 01 xe máy nhãn hiệu Lora màu xanh, biển số 90H1 – 41xx và 02 cuộn dây cáp truyền tín hiệu truyền hình. Quan sát thấy không có ai trông coi, L đi đến bên 02 cuộn dây cáp để lên chiếc xe máy trên rồi dắt xe máy đến xưởng cơ khí của ông Nguyễn Đình H trên đường N, phường C, thành phố H. Linh nói với ông H xe máy và 02 cuộn dây là tài sản của L muốn bán nên ông H đồng ý mua chiếc xe máy với giá 400.000đ và 02 cuộn dây cáp với giá 50.000đ. Số tiền này, L đã tiêu sài hết. Sau khi mua được tài sản trên, ông H đã bán chiếc xe máy cho 01 người đi mua phế liệu ở ngoài đường được 600.000đ còn 02 cuộn dây cất trong xưởng. Ngày 15/01/2021, sau khi được thông báo 02 cuộn dây cáp truyền tín hiệu trên là tài sản do người khác phạm tội mà có, ông H đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an TP. Hải Dương.

Tại kết luận định giá số 14 ngày 21/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Hải Dương kết luận: Giá trị của 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Lora màu xanhdo Trung Quốc sản xuất, BKS 90H1 – 41xx là 1.900.000đ; giá trị của 02 cuộn dây cáp đồng trục SN, mỗi cuộn dài 200m, vỏ màu đen là 600.000đ; Tổng giá trị tài sản là: 2.500.000đ.

Trong vụ án này, đối với Nguyễn Văn H sau khi phạm tội đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương đã ra quyết định truy nã và tách vụ án hình sự để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 18/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố Lương Tuấn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại anh Vũ Sơn T, anh Cao Ngọc Th có đơn xin xét xử vắng mặt, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Anh Th yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá chiếc xe máy hiệu Lora là 1.900.000đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình V vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt xác định: Khi mua tài sản của L không biết là tài sản trộm cắp. Ông V đã bán chiếc xe máy cho người không biết tên tuổi, địa chỉ được 600.000đ. Ông V không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 50.000đ, số tiền bán xe được lãi 200.000đ ông V đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Lương Tuấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm b, s, r khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Tuấn L từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 15/01/2021. Hình phạt bổ sung: không áp dụng; Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 581; 584, 585, 586, 589, 357 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Cao Ngọc Th giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Lora là 1.900.000đ; truy thu số tiền 200.000đ của ông Nguyễn Đình V sung vào ngân sách nhà nước.Về vật chứng: Không giải quyết.Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 17/11/2020, tại nhà anh Vũ Sơn T ở số 7B/19 Cựu Thành, phường N, thành phố H, Lương Tuấn L cùng Nguyễn Văn H đã lợi dụng sơ hở lén lút chiếm đoạt của anh Trường 01 cục nóng điều hòa nhãn hiệu LG V10ENHU màu trắng treo trên tường trước cửa nhà, trị giá 5.700.000đ.

Tiếp đó, khoảng 6 giờ 45 phút ngày 13/01/2021, tại trước cửa phòng trọ số 03 của anh Cao Ngọc Th ở số 56 NTM, phường B, thành phố H lợi dụng anh Th đi làm để xe ở ngoài, Lương Tuấn L đã chiếm đoạt của anh Th 01 xe máy nhãn hiệu Lora, màu xanh, biển số 90H1 – 41xx trị giá 1.900.000đ và 02 cuộn dây cáp đồng trục SN, mỗi cuộn dài 200m, vỏ màu đen trị giá 600.000đ.

Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 8.200.000đ.

nh vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý bất bình và lo lắng trong nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi, bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cả hai lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn có 01 tiền án: Bản án số 189 ngày 25/9/2018 của TAND thành phố Hải Dương xử phạt 14 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/8/2019 đến nay chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy đinh tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; sau khi trộm cắp tài sản của anh T, bị cáo đã tự nguyện mang trả lại cho anh T cục nóng điều hòa khắc phục hậu quả nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, trước khi bị phát hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy hiệu Lora và 02 cuộn dây cáp của anh Cao Ngọc Th bị cáo đã tự nguyện khai báo với cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương về hành vi phạm tội nêu trên, vì vậy bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ là tự thú theo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bên cạnh đó chỉ trong thời gian ngắn bị cáo hai lần thực hiện hành vi phạm tội, cả hai lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 cục nóng điều hòa nhãn hiệu LG V10ENHU, năng suất lạnh 9.200Btu/h, màu trắng, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Vũ Sơn T, anh T không đề nghị gì về bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe máy hiệu Lora L trộm cắp của anh Cao Ngọc Th, đến nay chưa thu giữ được, cơ quan điều tra đang tiếp tục truy tìm. Bị hại là anh Cao Ngọc Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị chiếc xe máy Lora theo giá của Hội đồng định giá là 1.900.000đ. Do vậy buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền trên.

- Về nghĩa vụ hoàn trả: Ông Nguyễn Đình V khi mua tài sản của bị cáo với số tiền 450.000đ (xe máy: 400.000đ; 02 cuộn dây cáp với số tiền 50.000đ), ông V không biết là tài sản trộm cắp nên không có căn cứ xử lý. Ông V không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 50.000đ (là tiền mua 02 cuộn dây cáp). Đối với chiếc xe máy ông V đã bán lại cho người không biết tên, tuổi địa chỉ với giá 600.000đ. Ông V bán xe máy lãi được số tiền 200.000đ, số tiền lãi trên xác định là do bán tài sản trộm cắp mà có nên cần truy thu để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc xe máy piaggo Liberty là phương tiện bị cáo và H thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của nhà anh Vũ Sơn T, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 cục nóng điều hòa nhãn hiệu LG V10ENHU, năng suất lạnh 9.200Btu/h, màu trắng, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Vũ Sơn T; 02 cuộn dây cáp đồng trục SN, mỗi cuộn dài 200m, vỏ màu đen, sử dụng để truyền tín hiệu truyền hình cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Cao Ngọc Th nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s, r khoản 1 Điều 51; điểm h, g khoản 1 Điều 52; Khoản 1 Điều 38; khoản 1 Điều 47; Điều 48 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 581; 584, 585, 586, 589, 357 Bộ luật dân sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Tuấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lương Tuấn L 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 15/01/2021.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Lương Tuấn L phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Cao Ngọc Th; Nơi ĐKHKTT: Số 30 PBC, phường C, thành phố H, tỉnh Hải Dương giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Lora là 1.900.000đ.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.

Truy thu số tiền 200.000đ của ông Nguyễn Đình H, sinh năm sinh năm 1965; Địa chỉ: 31 CD, phường Tr, thành phố H, tỉnh Hải Dương sung vào ngân sách nhà nước.

4. Về án phí: Bị cáo Lương Tuấn L phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần có liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về