Bản án 41/2021/HS-PT ngày 18/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU 

BẢN ÁN 41/2021/HS-PT NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 23/2021/TLPT-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo Lê Thị T do có kháng cáo của bị hại, người có quyền lợi liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Họ và tên: Lê Thị T, sinh năm 1966 tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Nơi cư trú: Khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: mua bán; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Th – sinh năm 1931 (đã chết) và bà Huỳnh Thị Ch – sinh năm 1925 (Huỳnh Thị T – sinh năm 1923), (đã chết); Chồng: Nguyễn Văn Ph – sinh năm 1957; Con: 02 người con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam gày 19/9/2019 cho đến nay.

- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo: Bà Nguyễn Kim Đ - sinh năm 1964, bà Trương Ngọc Gi – sinh năm 1986, bà Nguyễn Thị C1 – sinh năm 1964, bà Võ Thị C- sinh năm 1972, bà Trần Kim N – sinh năm 1967, bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1954, ông Trịnh Ngọc  – sinh năm 1953, bà Trần Ngọc S – sinh năm 1958 là người bị hại; Bà Trần Hồng N1 – sinh năm 1981, bà Trương Thị Thu B – sinh năm 1959, bà Hà Thu L – sinh năm 1962, bà Trương Thị Đ – sinh năm 1969, bà Trần Ngọc L – sinh năm 1958 là người có quyền lợi liên quan.

- Bị hại:

1. Bà Hồ Minh Th (Thùy Anh), sinh năm 1986, 2. Bà Trần Ngọc S, sinh năm 1958, 3. Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1965, 4. Bà Ngô Hồng Th1, sinh năm 1973, 5. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1954, 6. Bà Hồ Hằng N2, sinh năm 1986, 7. Bà Huỳnh Thị Đ, sinh năm 1965, 8. Bà Nguyễn Thị Th2, sinh năm 1982, 9. Bà Nguyễn Thị Ngọc Th3, sinh năm 1977, 10. Bà Dương Nguyệt T1, sinh năm 1980, 11. Bà Trần Thanh Th4, sinh năm 1976, 12. Bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1964, 13. Ông Quách Minh S1, sinh năm 1972, 14. Bà Trần Mai N (Út N), sinh năm 1973, Cùng địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện cái Nước, tỉnh Cà Mau.

15. Bà Trương Thị Tuyết H2, sinh năm 1983, 16. Ông Trịnh Ngọc Â, sinh năm 1953, 17. Bà Trần Kim N, sinh năm 1967, 18. Bà Trần Thị O, sinh năm 1980, 19. Bà Lê Thị Th5, sinh năm 1962, 20. Bà Nguyễn Thị Bích Th5, sinh năm 1983, 21. Bà Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1964, Cùng nơi cư trú: Khóm 1, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

22. Bà Võ Thị C, sinh năm 1972, 23. Ông Trần Văn S2 (Say), sinh năm 1978, 24. Ông Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1981, Cùng nơi cư trú:Ấp Nghĩa Hiệp, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

25. Bà Trương Ngọc Gi, sinh năm 1986, Nơi cư trú: Ấp Đồng Tâm, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Hồng N1, sinh năm 1981, 2. Bà Huỳnh Tuyết Nh, sinh năm 1984, 3. Bà Trương Thị Đ, sinh năm 1969, 4. Bà Hà Thu L, sinh năm 1962, 5. Ông Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1957, 6. Bà Trần Ngọc L (Trần Thị L), sinh năm 1958, 7. Bà Trương Thị Thu B, sinh năm 1959, 8. Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1989, 9. Ông Quách Minh L2, sinh năm 1964, Cùng nơi cư trú: Khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

10. Bà Nguyễn Thị Nh1, sinh năm 1983, 11. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1964, Cùng nơi cư trú: Khóm 1, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

11. Bà Trần Thị X, sinh năm 1972, 12. Ông Trang Trọng Nguyễn, sinh năm 1983, 13. Ông Trần Văn Dẩu, sinh năm 1966, Cùng nơi cư trú: Ấp Nghĩa Hiệp, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

14. Bà Lê Kim B, sinh năm 1966, 15. Bà Trương Thị Đ, sinh năm 1975, Cùng nơi cư trú: Ấp Ngọc Tuấn, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

16. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1982, Nơi cư trú: Ấp Láng Tượng, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

17. Bà Nguyễn Út Th6, sinh năm 1992, Nơi cư trú: Khóm 3, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

18. Bà Hồ Thị Kim Ng, sinh năm 1968, Nơi cư trú: Ấp Rau Dừa C, xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

19. Bà Nguyễn Thùy Tr, sinh năm 1986, Nơi cư trú: Ấp Tân Phú, xã Tân hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

20. Bà Nguyễn Thị Ánh H, sinh năm 1985, Nơi cư trú: Ấp Đông Hưng, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Tại phiên tòa: Bị cáo, bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Kim N, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Thu Ng1 (là người đại diện theo ủy quyền của ông Trịnh Ngọc Â), bà Trần Hồng N1, bà Trương Thị Thu B, bà Hà Thu L, bà Trương Thị Đ, bà Trần Ngọc L có mặt; Bà Nguyễn Kim Đ, bà Trương Ngọc Gi, bà Võ Thị C, bà Trần Ngọc S vắng mặt. Còn lại những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị T làm chủ hụi từ năm 2016, trong thời gian làm chủ hụi đã có hành vi tự ý hốt 03 chân hụi của hụi viên chiếm đoạt 286.240.000đ. Đối với những hụi viên bỏ thăm và hốt được hụi thì sau khi thu được tiền hụi, T không giao tiền cho hụi viên mà chiếm giữ của 02 chân hụi của hụi viên hốt hụi với số tiền 92.720.000 đồng. Tổng số tiền của 05 chân hụi là 378.960.000đ; Ngày 10/01/2019âl (ngày 14/02/2019dl) bị cáo đình hụi còn lại 05 dây hụi chưa mãn, đến giữa tháng 3/2019 bị cáo bỏ trốn, cụ thể:

Dây thứ 1: Mở ngày 04/10/2017dl (nhằm ngày 15/8/2017âl), loại hụi 5.000.00đ/tháng, 30 chân, có 14 hụi viên tham gia, khui được 17 kỳ (17 lần). Bị cáo tham gia 02 chân và mượn 02 chân hụi của con bị cáo; bị cáo hốt 04 chân hụi. Bị cáo tự ý lấy tên hụi viên Ngô Hồng Th1 hốt 02 chân hụi số tiền 205.000.000đ:

- Kỳ 9: Ngày 29/5/2018dl (ngày 15/4/2018âl) bỏ thăm 1.300.000đ hốt được 104.000.000đ.

- Kỳ 11: Ngày 27/7/2018dl (ngày 15/6/2018âl) bỏ thăm 1.450.000đ hốt được 101.000.000đ.

Sau khi hốt 02 chân hụi bị cáo đóng hụi chết cho đến khi ngừng hụi với số tiền 17.900.000đ.

Còn 06 hụi viên tham gia 13 chân đã đóng 17 kỳ nhưng chưa hốt hụi, gồm: Trần Mai N 01 chân, Trần Ngọc S 01 chân, Nguyễn Thị Thu Ng1 01 chân mỗi hụi viên đã đóng số tiền 58.580.000đ; Hồ Minh Th 03 chân đã đóng 175.740.000đ; Nguyễn Thị H 02 chân đã đóng 117.160.000đ; Trần Kim N 05 chân đã đóng 292.900.000đ.

Dây thứ 2: Mở ngày 24/5/2018dl (ngày 10/4/2018âl), loại hụi 2.000.000đ/tháng, 30 chân, có 20 hụi viên tham gia, khui được 09 kỳ. Bị cáo tham gia 02 chân, chưa hốt; Dây hụi này bị cáo không có hành vi gian dối chiếm đoạt tiền của hụi viên.

Dây thứ 3: Mở ngày 06/8/2018dl (ngày 25/6/2018âl), loại hụi 5.000.000đ/tháng, 30 chân, có 17 hụi viên tham gia, khui được 07 kỳ. Bị cáo tham gia 02 chân và đã hốt 02 chân hụi. Bị cáo tự ý lấy tên hụi viên Ngô Hồng Th1 hốt ở kỳ hụi thứ 5 (ngày 01/12/2018dl nhằm ngày 25/10/2018âl), bỏ thăm 2.260.000đ, hốt được là 81.240.000đ. Sau khi hốt 01 hụi bị cáo đóng hụi chết cho đến khi ngừng hụi với số tiền 4.750.000đ.

Dây hụi này, tại kỳ thứ 7 (ngày 30/01/2019dl nhằm ngày 25/12/2018âl), hụi viên Hồ Hằng N2 bỏ thăm 2.250.000đ, bị cáo đã thu tiền hụi của 14 hụi viên (gồm:

18 chân hụi sống, 01 chân hụi chết) được số tiền 54.500.000đ nhưng không giao tiền cho bà Ni, đến ngày 10/01/2019âl đình hụi và sau đó bị cáo bỏ trốn.

Dây hụi này còn 15 hụi viên tham gia 23 chân đã đóng nhưng chưa hốt hụi, gồm: Trần Thị O 01 chân, Trần Thanh Th4 01 chân, Lê Thị Th5 01 chân, Nguyễn Thị C1 01 chân, Trần Văn Say 01 chân, Dương Nguyệt T1 01 chân, Nguyễn Thị Th2 01 chân, Nguyễn Thị Ngọc Th3 01 chân mỗi hụi viên đã đóng 21.530.000đ; Trương Thị Tuyết H2 02 chân, Võ Thị C 02 chân, Trần Kim N 02 chân mỗi hụi viên đã đóng 43.060.000đ; Hồ Minh Th 03 chân đã đóng 56.340.000đ; Huỳnh Thị Đ 01 chân đã đóng 18.780.000đ; Hồ Hằng N2 02 chân đã đóng 37.340.000đ; Nguyễn Thị H 03 chân đã đóng 64.590.000đ.

Dây thứ 4: Mở ngày 29/9/2018dl (ngày 20/8/2018âl), loại hụi 3.000.000đ/tháng, 30 chân, có 20 hụi viên tham gia, khui được 05 kỳ. Bị cáo tham gia 02 chân, chưa hốt; Dây hụi này bị cáo không có hành vi gian dối chiếm đoạt tiền của hụi viên.

Dây hụi 5: Mở ngày 08/12/2018dl (ngày 02/11/2018âl), loại hụi 5.000.000đ/tháng, 27 chân, có 20 hụi viên tham gia, đã khui được 03 kỳ. Bị cáo tham gia 02 chân và đã hốt 01 chân.

Dây hụi này, tại kỳ thứ 3 (ngày 06/02/2019dl nhằm ngày 02/01/2019âl) hụi viên Trần Văn Dẩu bỏ thăm 2.060.000đ, bị cáo đã thu tiền hụi của 09 hụi viên (13 chân sống) được số tiền 38.220.000đ nhưng không giao tiền cho ông Dẩu; Sau đó, bị cáo tuyên bố đình hụi và bỏ trốn.

Dây hụi này còn 17 hụi viên tham gia 24 chân đã đóng nhưng chưa hốt hụi, gồm: Nguyễn Văn Ph, Trang Trọng Nguyễn, Trần Thị X, Nguyễn Thị X, Trần Văn Dẩu mỗi người 01 chân và mỗi người đã đóng 6.640.000đ; Trần Ngọc S, Trần Văn Say, Võ Thị C, Trương Ngọc Gi, Nguyễn Văn Ch mỗi người 01 chân và mỗi người đã đóng 9.580.000đ; Nguyễn Bích Thu, Nguyễn Kim Đ, Quách Minh S1, Nguyễn Thị Hồng mỗi người 02 chân và mỗi người đã đóng 19.160.000đ; Hồ Hằng N2 02 chân: 13.280.000đ; Hồ Minh Th 02 chân:

13.280.000đ; Hồ Kim Huệ 02 chân (Cơ quan điều tra chưa liên hệ làm việc được).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 và khản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 46, 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Xử phạt: Lê Thị T 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Buộc Lê Thị T có trách nhiệm trả: Hồ Minh Th: 62.220.000đ; Trần Mai N: 7.250.000đ; Trương Thị Tuyết H2: 28.290.000đ; Trần Ngọc S:

17.740.000đ; Nguyễn Thị Thu H1: 15.880.000đ; Ngô Hồng Th1: 19.990.000đ; Trịnh Ngọc Â: 7.250.000đ; Nguyễn Thị H: 30.970.000đ; Trần Kim N:

62.090.000đ; Huỳnh Thị Đ: 2.740.000đ; Hồ Hằng N2: 13.220.000đ; Võ Thị C: 14.280.000đ; Nguyễn Thị Th2: 5.490.000đ; Nguyễn Thị Ngọc Th3:

5.490.000đ; Dương Nguyệt T1: 11.340.000đ; Trần Thị O: 5.490.000đ; Trần Thanh Th4: 5.490.000đ; Nguyễn Thị C1: 5.490.000đ; Trần Văn Sai: 8.840.000đ; Nguyễn Thị Bích Th5: 5.880.000đ; Nguyễn Kim Đ: 5.880.000đ; Quách Minh S1: 5.880.000đ; Trương Ngọc Gi: 2.940.000đ; Nguyễn Văn Ch: 2.940.000đ.

Ngoài ra án sơ thẩm xử lý vật chứng; tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/01/2021, bà Trương Ngọc Gi, bà Trần Ngọc S, ông Trịnh Ngọc Â, bà Nguyễn Thị H, bà Trần Kim N, bà Võ Thị C, bà Nguyễn Thị C1, bà Trần Hồng N1, bà Hà Thu L, bà Trương Thị Đ, bà Trần Thị L kháng cáo; Ngày 27/01/2021 bà Trương Thị Thu B kháng cáo; Ngày 02/02/2021 bà Nguyễn Kim Đ kháng cáo. Các bị hại, người có quyền lợi liên quan kháng cáo yêu cầu hủy án sơ thẩm điều tra lại từ đầu với lý do: Án sơ thẩm bỏ lọt hành vi phạm tội; số tiền buộc bị cáo bồi thường chưa đúng với số tiền thiệt hại của bị hại, của người có quyền lợi liên quan.

Tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355; Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị hại, người có quyền lợi liên quan; Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước giao về để điều tra lại theo thủ tục chung, do chưa làm rõ được hành vi chiếm đoạt số tiền 92.720.000đ và tách phần dân sự trong cùng một dây hụi ra thành vụ kiện khác là không đúng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa vắng mặt người kháng cáo là bà Nguyễn Kim Đ, bà Trương Ngọc Gi, bà Võ Thị C, bà Trần Ngọc S. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không có chứng cứ chứng minh vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Định, bà Giàu, bà Cưởng, bà Sáng.

[2] Về tội danh và số tiền chiếm đoạt.

[2.1] Đối với số tiền chiếm đoạt do hành vi lấy tên khống hụi viên hốt hụi.

Bị cáo T là chủ hụi, lợi dụng những hụi viên không đi giám sát việc bỏ thăm hốt hụi nên bị cáo đã thực hiện hành vi gian dối là lấy tên của hụi viên bỏ thăm, hốt hụi. Cụ thể: Bị cáo đã 02 lần lấy tên hụi viên Thơ bỏ thăm của dây hụi ngày 15/8/2017âl và 01 lần lấy tên hụi viên Thơ bỏ thăm của dây hụi ngày 25/6/2018âl hốt được tổng số tiền 286.240.000đ. Đối với hành vi này cấp sơ thẩm xử bị cáo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng pháp luật.

Về số tiền: Cấp sơ thẩm nhận định số tiền bị cáo chiếm đoạt của 03 chân hụi là 286.240.000đ là đúng nhưng số tiền bị truy cứu trách nhiệm hình sự lại là số tiền còn lại sau khi đối trừ tiền bị cáo đóng hụi chết của 03 chân hụi (số tiền 22.650.000đ). Việc xác định số tiền bị cáo chịu trách nhiệm hình sự như vậy là không đúng. Bởi: Tội phạm đã hoàn thành ngay tại thời điểm bị cáo chiếm đoạt được tiền nên số tiền bị truy cứu trách nhiệm hình sự là toàn bộ số tiền bị cáo chiếm đoạt. Việc bị cáo đóng hụi chết là thủ đoạn che giấu hành vi phạm tội của bị cáo; việc đối trừ này chỉ tính phần dân sự mà bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường cho các bị hại.

[2.2] Đối với số tiền 92.720.000đ do hành vi thu tiền hụi của các hụi viên đóng hụi nhưng không giao cho người hốt hụi.

Dây hụi mở ngày 25/6/2018âl, tại kỳ hụi thứ 7 (ngày 30/01/2019âl) Hồ Hằng N2 bỏ thăm hốt hụi, bị cáo đã thu được 19 chân hụi với số tiền 54.500.000đ, còn lại 07 chân hụi viên chưa đóng.

Tại lời khai ngày 11/3/2020dl, bà Ni khai: Theo thỏa thuận, sau 10 ngày kể từ ngày bỏ thăm hốt hụi chủ hụi phải giao tiền hụi nhưng bị cáo không giao tiền hụi mà đến ngày 10/01/2019âl bị cáo tuyên bố đình hụi. Sau khi đình hụi được khoảng nữa tháng giữa bị cáo và bà Ni có gặp nhau để tính toán về hụi. Bị cáo không tính kỳ thứ 7 cho bà Ni hốt hụi với lý do đình hụi; sau khi tính toán bà Ni thống nhất còn nợ lại bị cáo 41.000.000đ và cấn trừ qua bà Lê Thị Th5.

Đối với dây hụi mở ngày 02/11/2018âl, tại kỳ hụi thứ 3 (ngày 02/01/2019âl) ông Trần Văn Dẩu bỏ thăm hốt hụi, bị cáo đã thu 38.220.000đ của 13 chân hụi, còn lại 13 chân hụi viên chưa đóng.

Tại lời khai ngày 10/9/2020dl, ông Dẩu khai: Sau khi khui hụi, ngày 09/01/2019âl ông gặp bị cáo nhận tiền hốt hụi thì bị cáo cho biết: Chưa gom được hụi và hẹn đến ngày 12/01/2019âl. Ngày 10/01/2019âl bị cáo đình hụi, ngày 13/01/2019âl ông Dẩu gặp bị cáo tính toán hụi thì bị cáo hứa với ông Dẩu sẽ trả lại số tiền thực đóng của 02 kỳ khui hụi, còn kỳ khui hụi ông Dẩu bỏ thăm hốt thì không ai đóng do đình hụi.

Như vậy, hai chân hụi này các hụi viên đã đóng với tổng số tiền 92.720.000đ; Số tiền trên bị cáo nhận xong nhưng không giao lại cho hụi viên Hồ Hằng N2, Trần Văn Dẩu. Với hành vi trên cấp sơ thẩm truy cứu trách nhiệm hình sự bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chưa đảm bảo. Bởi lẽ: Các chứng cứ có tại hồ sơ chưa đủ cơ sở để chứng minh về thời điểm bị cáo nảy sinh ý thức chiếm đoạt; Chưa đủ chứng cứ chứng minh bị cáo gian dối đối với các hụi viên góp hụi hay gian dối đối với chị Ni, ông Dẩu cũng như thủ đoạn và hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Tất cả các vấn đề trên cấp sơ thẩm chưa điều tra, thu thập đủ chứng cứ để chứng minh rõ các dấu hiệu về mặt khách quan và chủ quan của tội phạm nhưng lại kết luận bị cáo Lừa đảo chiếm đoạt 92.720.000đ là chưa đảm bảo có đủ chứng cứ vững chắc về xác định tội danh cũng như xác định người bị hại.

[3] Trách nhiệm dân sự và tư cách tố tụng.

[3.1] Án sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền chiếm đoạt tại lần tự ý lấy tên hụi viên hốt hụi mà không xem xét đến các lần khác của các bị hại đã góp hụi nhưng chưa được hốt hụi trong dây hụi là chưa xem xét toàn diện các thiệt hại của bị hại do bị cáo gây ra. Bởi: Tại thời điểm bị cáo có hành vi gian dối hốt hụi chiếm đoạt tiền của hụi viên thì tất cả những hụi viên trong dây hụi (hụi chết, hụi sống) đều là bị hại, là người bị bị cáo lừa dối chiếm đoạt tiền. Như vậy, tại thời điểm bị cáo có hành vi tự ý hốt hụi đã làm phát sinh yếu tố lừa dối đối với các hụi viên trong dây hụi. Sự lừa dối này đã làm cho các giao dịch hụi tiếp theo của dây hụi trở nên vô hiệu. Do đó, khi xử lý giao dịch dân sự vô hiệu phải xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại điều 131 của Bộ luật dân sự.

[3.2] Mặc khác, việc xử lý trách nhiệm dân sự của án sơ thẩm có sai phạm, cụ thể: Nguyễn Thị Thu H1 tham gia 01 chân tại dây hụi ngày 15/8/2017âl, chân hụi này bà Hồng đã hốt hụi tại kỳ thứ 4. Tại kỳ khui hụi thứ 9 và thứ 11 bị cáo có hành vi gian chiếm đoạt của bà Hồng 10.000.000đ nhưng lại buộc bị cáo có nghĩa vụ trả bà Hồng 15.880.000đ.

[3.3] Án sơ thẩm xác định bà Lê Thị Th5 – sinh năm 1962 trú tại Khóm 1, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước là bị hại do bị cáo có hành vi tự ý lấy tên hụi viên Thơ hốt hụi kỳ thứ 5 của dây hụi ngày 25/6/2018âl. Tại kỳ khui hụi này bà Thu đóng hụi sống 2.740.000đ nhưng dây hụi này bà Thu đã đóng hụi được 07 kỳ với số tiền 21.530.000đ. Song, phần trách nhiệm dân sự lại không buộc bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả số tiền cho bà Thu là sai sót trong khi bà Thu yêu cầu bị cáo T phải trả (BL: 169 – 176).

[3.4] Án sơ thẩm xác định bà Nguyễn Thị Bích Th5, bà Nguyễn Kim Đ, ông Quách Minh S1, ông Nguyễn Văn Ch, bà Trương Ngọc Gi, ông Trần Ngọc S là bị hại của hành vi bị cáo thu tiền hụi do ông Trần Văn Dẩu hốt hụi và buộc bị cáo có trách nhiệm trả lại cho các bị hại. Thế nhưng, bà Nguyễn Thị Hồng cũng là hụi viên tham gia dây hụi dây này và bà Hồng có đóng 5.880.000đ do ông Dẩu hốt hụi nhưng án sơ thẩm xác định bà Hồng tham gia tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và không buộc bị cáo có trách nhiệm trả lại tiền cho bà Hồng là mâu thuẫn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hồng (BL:

380, 840).

[3.5] Án sơ thẩm xác định bị cáo chiếm đoạt của 25 bị hại ở 03 dây hụi với số tiền 356.310.000 đồng nhưng số tiền của từng bị hại án sơ thẩm đã xác định cộng lại thì có tổng số tiền là 358.560.000 đồng.

Từ những sai phạm như đã phân tích và nhận định trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát hủy toàn bộ bản án sơ thẩm giao về cho cấp sơ thẩm điều tra lại theo thủ tục chung.

Do hủy án sơ thẩm nên cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết những yêu cầu kháng cáo khác của người kháng cáo.

[4] Về án phí: Do hủy án sơ thẩm nên những người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả lại số tiền dự nộp án phí phúc thẩm cụ thể: Bà Võ Thị C 300.000đ tại Biên lai số 0006073 ngày 23/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Nguyễn Thị C1 300.000đ tại Biên lai số 0006062 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Hà Thu L 300.000đ tại Biên lai số 0006064 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Trương Thị Đ 300.000đ tại Biên lai số 0006066 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước. Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 1 Điều 358, khoản 1 Điều 360 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Cái Nước; Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung.

- Án phí: Những người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả lại: Bà Võ Thị C 300.000đ tại Biên lai số 0006073 ngày 23/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Nguyễn Thị C1 300.000đ tại Biên lai số 0006062 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Hà Thu L 300.000đ tại Biên lai số 0006064 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước; Bà Trương Thị Đ 300.000đ tại Biên lai số 0006066 ngày 26/01/2021 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2021/HS-PT ngày 18/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:41/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về