Bản án 41/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐP, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2020/HS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã HM, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 45/2020/TLST- HS ngày 08 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 6 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Trần Quang H, sinh năm 1981 tại huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú và ĐKHKTT: Cụm 3, xã Th, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Công Ph, con bà Hoàng Thị L; có vợ và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; danh bản, chỉ bản số 055 do Công an huyện ĐP, Thành phố Hà Nội lập ngày 06/01/2020; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020; tạm giam: Không. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đặng Văn H1, sinh năm 1970 tại huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú và ĐKHKTT: Thôn 5, xã TM, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn B (đã chết), con bà Nguyễn Thị S (đã chết); có vợ và có 04 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Có 01 tiền án: Bản án số 80/2016/HS- ST ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân huyện ĐP xử phạt 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 27/4/2018; tiền sự: không; nhân thân: Năm 2011, Đặng Văn H1 bị UBND huyện ĐP ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng; danh bản, chỉ bản số 057 do Công an huyện ĐP, Thành phố Hà Nội lập ngày 06/01/2020; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020; tạm giam: Không. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án: Anh Trần Thế H2, sinh năm 1977; nơi cư trú: Cụm 3, xã Th, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Uông Văn T, sinh năm 1968; nơi cư trú: Cụm 9, xã HM, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

Ông Lê Văn S1, sinh năm 1960; nơi cư trú: Cụm 9, xã Th, huyện ĐP, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, Trần Quang H gọi điện cho một người đàn ông tên Th1 khoảng 60 tuổi ở xã Tr hỏi mua 1.000.000 đồng tiền ma tuý loại hêrôin. Sau khi trao đổi, H đi đến khu vực nghĩa trang thôn C, xã Th, huyện ĐP gặp Th1, H đưa cho Th1 1.000.000 đồng và nhận của Th1 20 gói heroin. Sau khi mua được ma tuý, H mang về sử dụng cho bản thân hết 02 gói. Đến khoảng 12 giờ 10 phút ngày 03/01/2020, H nhận được cuộc điện thoại của Đặng Văn H1 hỏi mua 01 gói ma tuý hêroin, H đồng ý bán với giá 200.000 đồng và hẹn H1 đến cổng trường THCS Th để giao ma tuý và nhận tiền. H điều khiển xe máy BKS 29X3- 266.24 đến cổng trường THCS Th giao 01 gói ma tuý cho H1 và nhận của Học 01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000 đồng rồi đi về nhà. H1 cầm gói ma tuý trên đi đến khu vực cổng làng Đ, xã HM, huyện ĐP, định tìm chỗ để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng là 01 gói heroin và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung có số thuê bao 0961653781. Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, H tiếp tục cầm 17 gói ma tuý hêroin, điều khiển xe máy trên đến khu vực cổng trường THCS Th, huyện ĐP thì bị công an bắt quả tang, thu giữ tại túi quần bên trái của Huy 06 gói ma tuý, tại túi quần bên phải 11 gói ma tuý cùng 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 29X3- 266.24, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 trong có hai số thuê bao 0976485181 và 0327347198, 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 06 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 26 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 10 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, tổng là 4.840.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Văn H1 khai H1 và H là bạn nghiện với nhau. Do cần sử dụng ma túy và biết H có ma túy bán nên Học thuê xe ôm đi đến trường THCS xã Th gặp H để mua 01 gói ma túy về sử dụng, ngoài ra H1 không có ý định sử dụng số ma túy mua được vào mục đích nào khác. Toàn bộ số ma túy mua được bị cáo chưa kịp sử dụng thì đã bị phát hiệu và thu giữ. Chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung bị thu giữ cũng là của bị cáo mới dùng liên lạc với H để mua ma túy.

Trần Quang H khai bản thân nghiện ma túy, do cần tiền chi tiêu cá nhân và trả nợ, thấy việc mua bán ma tuý lãi nhiều nên Huy đã hỏi mua ma túy của một người đàn ông tên là Th1 khoảng 60 tuổi ở xã Tr, huyện ĐP về để bán kiếm lời. Vì vậy, H đã mua 20 gói ma túy của Th1 với giá 1.000.000 đồng. Sau đó sử dụng hết 02 gói, 01 gói bán cho Đặng Văn H1 với giá 200.000 đồng còn 17 gói để trong người định mang đi ai hỏi mua thì bán nhưng chưa kịp bán thì bị công an phát hiện, thu giữ. Các tài sản bị thu giữ gồm chiếc xe máy là của anh trai H tên là Trần Thế H2, chiếc điện thoại là của H, đã dùng để liên lạc mua bán ma túy với Th1 và H1. Số tiền 4.840.000 đồng trong đó có 200.000 đồng là tiền bán ma túy cho H1, còn lại là tiền do H lao động có được.

Ngày 04/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐP đã trưng cầu giám định đối với chất bột màu trắng trong các gói giấy thu giữ của H1 và H.

Tại Kết luận giám định số 284 ngày 10/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 17 gói giấy (mỗi gói để trong 01 đoạn ống nhựa kẻ sọc) thu của Trần Quang H đều là ma tuý loại Hêroin, tổng khối lượng 0,970 gam.

Tại Kết luận giám định số 285 ngày 10/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy để trong 01 đoạn ống nhựa kẻ sọc trắng thu của Đặng Văn H1 là ma tuý loại Hêroin, khối lượng 0,160 gam.

Bản Cáo trạng số 45/CT-VKS- ĐP ngày 31/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP, Thành phố Hà Nội truy tố Đặng Văn H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và Trần Quang H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Quang H và Đặng Văn H1 khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã khai trong quá trình điều tra. Các bị cáo đều tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt. Đối với số tiền 4.640.000 đồng, Huy khai là tiền của vợ đưa cho để đi mua tivi do tivi đang dùng ở nhà bị hỏng. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Trần Thế H2 trình bày, chiếc xe máy biển kiểm soát 29X3-266.24 là của anh mua từ năm 2016 với giá 21.000.000 đồng hiện đang đăng ký tên anh. Do chung sống cùng nhau nên mọi người trong nhà ai có nhu cầu dùng xe thì tự lấy xe đi. Anh không biết việc H dùng xe đi mua bán ma túy. Anh đề nghị HĐXX trả lại cho anh chiếc xe để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Quang H về tội Mua bán trái phép chất ma túy, Đặng Văn H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Quang H từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Văn H1 từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy heroin còn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước hai chiếc điện thoại di động thu của H1, H và 200.000 đồng tiền bán ma túy của H; trả lại anh Trần Thế H2 chiếc xe máy biển kiểm soát 29X3-266.24, trả lại Trần Quang H số tiền 4.640.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vụ án xảy ra tại địa bàn huyện ĐP, Thành phố Hà Nội nên thẩm quyền khởi tố điều tra, truy tố và xét xử thuộc các cơ quan tố tụng của huyện ĐP, Thành phố Hà Nội. Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên và Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP đã thực hiện trình tự tố tụng, nội dung và các căn cứ để ban hành các văn bản và quyết định tố tụng đúng theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Do cần tiền chi tiêu nên Trần Quang H nảy sinh ý định mua ma túy về bán. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, Trần Quang H đi đến khu vực nghĩa trang C thuộc cụm 5, xã Th, huyện ĐP để mua 20 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng của một người đàn ông tên Th1, khoảng 60 tuổi. Sau khi mua, H đã sử dụng 02 gói cho bản thân. Đến khoảng 12 giờ 10 phút ngày 03/01/2020, H bán cho Đặng Văn H1 01 gói với giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy của H, Đặng Văn H1 đi tìm chỗ để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện thu giữ gói ma túy. Kết quả giám định gói ma túy của H1 là heroin có trọng lượng 0,160 gam. Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, Trần Quang H tiếp tục mang 17 gói ma túy đi định bán. Khi đi đến cổng trường THCS xã Th thì bị phát hiện và thu giữ toàn bộ 17 gói ma túy. Kết quả giám định 17 gói ma túy của H là hêroin có trọng lượng 0,970 gam.

[3].Hành vi của Trần Quang H mua bán 18 gói heroin trong đó một lần đã bán cho Đặng Văn H1 và một lần đang trên đường mang đi mục đích để bán thì bị phát hiện, đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của Đặng Văn H1 mua 01 gói ma túy có trọng lượng 0,160 gam để sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐP truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây ra sự mất ổn định đối với trật tự trị an trên địa bàn huyện ĐP cũng như tình hình trật tự trị an xã hội nói chung.

Ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sử dụng. Ma túy là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác. Tệ nạn ma túy là vấn đề nhức nhối của xã hội, đặc biệt là trong tình hình hiện nay. Vì vậy, việc xét xử lưu động các bị cáo là cần thiết để tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến nhân dân.

[5]. Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với từng bị cáo thấy: Bị cáo Trần Quang H là đối tượng nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma túy đối với bản thân và đối với cộng đồng nhưng không quyết tâm từ bỏ mà còn tiếp tục bán ma túy cho những người nghiện khác nhằm mục đích kiếm lời, tiếp tay cho các đối tượng nghiện tiếp tục sa vào con đường nghiện ngập. H bán ma túy nhiều lần và bị truy tố theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự, do vậy cần phải áp dụng với bị cáo H mức hình nghiêm cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành công dân tốt. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Đặng Văn H1 có nhân thân xấu, bản thân nghiện ma túy từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và quản lý sau cai nhưng vẫn không từ bỏ ma túy; bị cáo có một tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, mới chấp hành hình phạt xong ngày 27/4/2018, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này của bị cáo H1 thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, không có khả năng tự cải tạo bản thân, do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng sẽ xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo H1 không có nghề nghiệp và thu nhập, việc bị cáo tàng trữ ma túy chỉ nhằm sử dụng cho bản thân, không có điều kiện về kinh tế để thi hành án nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H1. Bị cáo H mua bán ma túy nhằm mục đích kiếm lời, tuy bị cáo chưa đạt được mong muốn thì bị phát hiện vì vậy để thể hiện sự răn đe nghiêm khắc của pháp luật đối với bị cáo H nói riêng cũng như đối với tất cả những người khác có ý định kiếm lời bằng cách bất chính, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên Th1 khoảng 60 tuổi là người đã bán ma túy cho bị cáo H, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra nhưng không xác định được nên không có cơ sở để xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy heroin đã thu giữ của các bị cáo, còn lại sau giám định được niêm phong theo quy định của pháp luật sẽ tịch thu tiêu hủy.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu vàng đã qua sử dụng trong có số thuê bao 0961653781 của Đặng Văn H1 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO- A5 màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có hai số thuê bao, sim 1 số 0976485181, sim 1 số 032734198 của Trần Quang H. Các bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua, bán ma túy nên sẽ tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Số tiền 200.000 đồng trong tổng số 4.840.000 đồng thu giữ của Trần Quang H là tiền Huy bán ma túy cho Đặng Văn H1 sẽ bị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 4.640.000 đồng còn lại, Hội đồng xét xử nhận thấy, mặc dù tại phiên tòa bị cáo H khai là tiền của vợ bị cáo đưa cho để mua tivi nhưng bị cáo cũng khẳng định các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra tự nguyện, không bị ép buộc. Trong suốt thời gian điều tra, truy tố bị cáo đều khai nhận đó là tiền của bị cáo do lao động mà có. Bản thân bị cáo được tại ngoại nhưng cho đến tại thời điểm bị cáo nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, bị cáo và vợ bị cáo đều không trình bày, đề nghị gì khác. Vì vậy, lời khai của bị cáo về việc số tiền này của vợ bị cáo đưa cho bị cáo là không có căn cứ, không được chấp nhận. Tuy số tiền 4.640.000 đồng của bị cáo H không phải là tiền mua bán ma túy nhưng sẽ tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án của bị cáo .

Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Blade màu đỏ, đen, biển kiểm soát 29X3- 266.24 đăng ký tên anh Trần Thế H2, anh trai bị cáo H. Quá trình điều tra xác định đó là xe của anh H2. Anh H2 không biết bị cáo H sử dụng xe vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại cho anh H2.

[7]. Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quang H 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020.

Phạt bổ sung Trần Quang H 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn H1 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 03/01/2020 đến ngày 10/01/2020.

3. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bao gói sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội, được niêm phong theo quy định của pháp luật, còn nguyên niêm phong.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu vàng đã qua sử dụng trong có số thuê bao 0961653781 của Đặng Văn H1 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO- A5 màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có hai số thuê bao, sim 1 số 0976485181, sim 1 số 032734198 của Trần Quang H.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 200.000 đồng thu của Trần Quang H.

Trả lại anh Trần Thế H2 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Blade màu đỏ, đen, biển kiểm soát 29X3- 266.24.

Tiếp tục tạm giữ của Trần Quang H số tiền 4.640.000 đồng để đảm bảo thi hành án. (Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/6/2020 giữa Công an huyện ĐP với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐP, Thành phố Hà Nội).

3. Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đặng Văn H1 và bị cáo Trần Quang H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về