Bản án 41/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 41/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp: Ly hôn tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Theo quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 39/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu H - Sinh năm 1974 Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Lê Thị S - Sinh năm 1981 Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên toà vắng mặt anh H (có đơn xin xét xử vắng mặt) và chị S (vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 18/9/2019, bản tự khai và trong quá trình xét xử nguyên đơn anh Nguyễn Hữu H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được Uỷ ban nhân dân xã Hà Lai, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/11/2004. Sau khi cưới vợ chồng sống H phúc bình thường đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, chị S tự do quan hệ đi chơi với người khác giới, anh đã bắt gặp và nhiều lần góp ý nhưng không được. Ngày 04/5/2019 (âm lịch) chị S bỏ nhà đi anh không biết và vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng đoàn tụ, nên anh xin được ly hôn với chị Lê Thị S.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên là Nguyễn Thanh Ng, sinh ngày 26/8/2005 và Nguyễn Lê V, sinh ngày 30/9/2012. Hiện nay các cháu khỏe mạnh và đang ở với anh. Ly hôn anh H có nguyện vọng nuôi cả hai cháu và không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Hiện nay anh làm thợ xây thu nhập 300.000đồng/ngày.

- Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 24/6/2020 chị Lê Thị S trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hữu H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, có tìm hiểu, đăng ký kết hôn ngày 20/4/2004, vợ chồng chung sống hòa thuận H phúc được 16 năm. Từ khi anh H đi làm thợ xây có nảy sinh tình cảm với người khác từ năm 2016 đến nay, đến năm 2017 chị khuyên ngăn không được nên bị ức chế và bị trầm cảm. Anh H nghi ngờ chị có bồ bịch, vợ chồng cải nhau anh H đánh chị rất nhiều lần. Nguyện vọng của chị vì con, để cho các con có bố có mẹ nên chị không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, các cháu tên là Nguyễn Thanh Ng, sinh ngày 2/8/2005 và Nguyễn Lê V, sinh ngày 30/9/2012. Nếu phải ly hôn chị có nguyện vọng nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hiện nay chị làm công việc buôn bán thu nhập 10.000.000đ đến 15.000.000đồng/tháng.

- Về tài sản: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã nhiều lần triệu tập hợp lệ chị Lê Thị S đến hòa giải tuy nhiên chị S không đến làm việc. Nên không tiến hành hòa giải được về việc giải quyết vụ án.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Lai, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị S và anh H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn, từ cuối năm 2018 đầu năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị S thiếu chung thủy với anh H có quan hệ không lành mạnh với người khác giới dẫn đến xô xát đánh nhau nhiều lần, địa phương đã tổ chức hòa giải nhưng không có kết quả.

Mâu thuẫn trầm trọng nhất là từ tháng 5/2020 cho đến nay, vợ chồng sống chung cùng nhà nhưng ăn riêng. Quan điểm của địa phương là mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, sống với nhau cũng không có H phúc, đề nghị cho anh chị được ly hôn. Vợ chồng anh chị có 02 con chung, các cháu tên là Nguyễn Thanh Ng, sinh ngày 26/8/2005 và Nguyễn Lê V, sinh ngày 30/9/2012 các cháu đang ở với anh H, điều kiện chăm sóc của anh H tốt hơn chị S, đề nghị xem xét nguyện vọng của các cháu và cần giao cả hai cháu cho anh H nuôi là phù hợp. Gần đây chị S đánh con gái đã bị Công an lập biên bản.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của anh H, xử cho anh H được ly hôn chị S; về con chung giao cháu Nguyễn Thanh Ng và Nguyễn Lê V cho anh H nuôi dưỡng. Chị S không phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh H. Anh H phải chịu tiền án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay chị S vắng mặt; anh H có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Nguyễn Hữu H có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Lê Thị S không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các V bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất vào ngày 09/9/2020. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh H và chị S.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị S và anh Nguyễn Hữu H kết hôn với nhau năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn và không vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Theo anh H vợ chồng sau khi kết hôn chung sống hòa thuận, H phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, chị S quan hệ với người khác giới, chị S bỏ nhà đi và vợ chồng sống ly thân từ lâu, không quan tâm đến nhau, nên anh xin ly hôn. Theo chị S từ năm 2016 anh H có quan hệ tình cảm với người khác, anh H nghi ngờ chị có bồ bịch, vợ chồng cải nhau anh H đánh chị rất nhiều lần. Nguyện vọng của chị là vì con, để cho các con có bố có mẹ nên chị không đồng ý ly hôn.

Đi với chị S, chị đã được Toà án triệu tập hợp lệ, nhưng chị không đến Tòa án để hòa giải và làm việc. Đây thể hiện chị không còn tình cảm với anh H và bỏ mặc việc giải quyết vụ án.

Ngoài ra, Tòa án cũng đã làm việc chính quyền xã Hà Lai được biết: Từ cuối năm 2018 đầu năm 2019 vợ chồng anh H chị S phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị S có quan hệ không lành mạnh với người khác giới dẫn đến xô xát đánh nhau, địa phương đã tổ chức hòa giải nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là từ tháng 5/2020 cho đến nay, có lần đánh nhau bị Công an lập biên bản, vợ chồng sống chung cùng nhà nhưng ăn riêng. Quan điểm của địa phương là mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, sống với nhau cũng không có H phúc.

Xét thấy, anh H thực sự không còn tình cảm với chị S, chị S mong muốn đoàn tụ nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án chị S cũng không đến tham gia buổi hòa giải và làm việc, bỏ mặc việc giải quyết vụ án chứng tỏ chị không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Đến nay anh H vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được và vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau.

Theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, H phúc gia đình, nhưng ở đây anh H đã thực sự không còn tình cảm với chị S, chị S không quan tâm bỏ mặc việc giải quyết vụ án và không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng và vợ chồng thường hay cải nhau, xô xát và đánh nhau. Do đó nếu buộc anh chị quay về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh H và căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ xử cho anh H được ly hôn chị S là phù hợp.

[3] Về con: Anh H và chị S đều khai thống nhất, vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thanh Ng, sinh ngày 26/8/2005 và Nguyễn Lê V, sinh ngày 30/9/2012. Ly hôn, anh H xin được nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Ý kiến của chị S, nếu ly hôn chị có nguyện vọng nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Anh H và chị S đều có khả năng chăm sóc các cháu tốt.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Theo chính quyền địa phương cần giao cả hai cháu cho anh H nuôi dưỡng. Tại biên bản hiện trường vụ đánh nhau ngày 07/7/2020 của Công an xã Hà Lai thể hiện chị S đã đánh con gái là cháu Nguyễn Thanh Ng vì lý do tự ý lên Tòa án làm việc theo yêu cầu của Tòa án, đây thể hiện chị S đã có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con. Ngoài ra cháu Ng và cháu V đều có nguyện vọng xin được ở với bố. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu Ng và cháu V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Hội đồng xét xử thấy rằng đây là sự tự nguyện của anh, mức thu nhập của anh cũng đủ cho việc chăm sóc nuôi dưỡng con. Nên không xem xét.

[4] Về tài sản: Anh H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Nguyễn Hữu H là nguyên đơn trong vụ án nên buộc anh H phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Hữu H và chị Lê Thị S.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Công nhận vợ chồng có 02 con chung gồm:

+ Nguyễn Thanh Ng - Sinh ngày 26 tháng 8 năm 2005;

+ Nguyễn Lê V - Sinh ngày 30 tháng 9 năm 2012.

2.2. Giao con chung là Nguyễn Thanh Ng và Nguyễn Lê V cho anh Nguyễn Hữu H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Chị Lê Thị S không phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh H.

2.4. Chị S có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Hữu H phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009116 ngày 26/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh H đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Anh H, chị S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:41/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về