Bản án 41/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2019/HSST ngày 29/01/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Văn T; Sinh năm: 1998 tại tỉnh T; Nơi ĐKHKTT: không có; Nơi cư trú: B7/13 ấp 2, xã K, huyện B, Thành phố H; Nghề nghiệp: bốc xếp; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn L và bà Cao Thị P; Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 15/11/2018, có mặt.

Bị hại: Bà Lý Thị T, sinh năm: 1961 (vắng mặt)

Địa chỉ: 26/6 đường H, phường T, quận P, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Lý Thị T làm nghề buôn bán thủy sản khô, bà có thuê kho số 2 tại kho hàng ở địa chỉ C4/26A khu phố 3, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để chứa ruốc thu mua của các hộ dân ở các tỉnh miền Tây, việc xuất và nhập hàng tại đây do bà T trực tiếp thực hiện. Bà Nguyễn Thị Cẩm H (tên gọi khác là Nguyễn Thị Q) là chủ kho hàng, có trách nhiệm trông coi kho và mở cổng kho khi có người đến xuất, nhập hàng.

Khoảng 16 giờ ngày 29/8/2018, sau khi thu mua ruốc, bà T thuê Cao Văn T và vài nhân viên khác bốc xếp các bao ruốc vào các kho số 2, kho số 1 (chưa có người thuê) và để trước cửa kho (thuộc kho hàng chung). Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, do có ý định chiếm đoạt tài sản, T gọi điện thoại thuê ông Nguyễn Ngọc T điều khiển xe ba gác máy đến kho hàng. Tại kho hàng,  T nói với bà Quỳnh là đi lấy hàng cho bà T và nhờ bà Quỳnh mở cổng kho hàng cho  T và ông T vào.  T vào trước cửa kho số 1 lấy 13 bao ruốc ra cho ông T chất lên xe rồi chở đến kho hàng tại nhà không số tổ 5, ấp 2, xã N, huyện B, Thành phố H, bán cho ông Phạm Văn B với số tiền 50.700.000 đồng, T trả tiền công cho ông T 300.000 đồng rồi cả hai bỏ đi. Số tiền bán ruốc có được, T đem đi mua 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của một người thanh niên (không rõ lai lịch) ở khu vực quận G, số tiền còn lại đã tiêu xài cá nhân hết. Sau đó, T đem thế chấp chiếc điện thoại nêu trên tại tiệm cầm đồ Thiên Kim, địa chỉ 1268 Tỉnh lộ M, phường T, quận B, Thành phố H (do ông Phạm Duy K làm chủ) lấy số tiền 6.000.000 đồng và cũng đã tiêu xài hết.

Sáng ngày 30/8/2018, bà T đến kho thì nghe bà Quỳnh nói lại sự việc T đến lấy hàng nên kiểm đếm và phát hiện bị mất 13 bao ruốc nên đến Công an thị trấn Tân Túc trình báo. Cơ quan Công an đã lập hồ sơ ban đầu, mời Cao Văn T về trụ sở làm việc, thu giữ vật chứng rồi chuyển đến Công an huyện Bình Chánh xử lý, riêng 13 ruốc do T chiếm đoạt thì không thu hồi được do ông Phạm Văn Bảy sau khi mua lại ruốc từ T đã trộn số ruốc này vào số ruốc có sẵn trong kho của mình.

Căn cứ công văn số 2398/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh đã xác định: 13 bao ruốc (tương đương 780 kg) có tổng trị giá 66.300.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Cao Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng trong vụ án:

- 02 biên nhận cầm đồ.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus.

Tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Cao Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Cao Văn T từ 02 năm đến 03 năm tù. Xử lý trách nhiệm dân sự và vật chứng theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào khoảng 19 giờ ngày 29/8/2018, tại kho hàng số 1, địa chỉ C4/26A khu phố B, thị trấn T, huyện B, Thành phố H, Cao Văn T đã có hành vi lén lút lấy trộm 13 bao ruốc (tương đương 780kg ruốc) của bà Lý Thị T. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết quả thẩm tra tại phiên tòa.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản hợp pháp của người khác là trái với quy định của pháp luật nhưng vì vụ lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 66.300.000 đồng, đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Cao Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Cao Văn T từ 02 năm đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng:

- 02 biên nhận cầm đồ: Các vật chứng này liên quan đến việc chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên bảo lưu hồ sơ vụ án.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus: Đây là tài sản do phạm tội mà có, xét thấy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại bà Lý Thị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện bà T có yêu cầu bị cáo Cao Văn T có trách nhiệm bồi thường số tiền 66.300.000 đồng là giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt trái phép của bà. Bị cáo T cũng chấp nhận bồi thường số tiền nêu trên theo yêu cầu của bà T, xét thấy sự thỏa thuận của bị hại và bị cáo là tự nguyện và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Đối với bà Nguyễn Thị Q là người đã mở cổng kho hàng cho bị cáo T vào lấy tài sản, do bà Q không biết việc bị cáo T lấy trộm 13 bao ruốc nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với ông Nguyễn Ngọc T là người được bị cáo thuê chở số ruốc lấy trộm được đi tiêu thụ và ông Phạm Văn B là người đã mua ruốc của bị cáo T, do ông T, ông B không biết số ruốc này là tài sản do bị cáo chiếm đoạt trái phép nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với ông Phạm Duy K là người đã nhận cầm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus của bị cáo, do ông K không biết chiếc điện thoại này là tài sản do phạm tội mà có, quá trình điều tra ông K đã tự nguyện giao nộp lại chiếc điện thoại nêu trên, do đó Cơ quan điều tra không xử lý. Ông Kiên đã nhận lại số tiền 6.000.000 đồng từ bị cáo T và không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử ghi nhận

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Cao Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/11/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Cao Văn T có trách nhiệm bồi thường cho bà Lý Thị T số tiền 66.300.000 đồng (sáu mươi sáu triệu ba trăm ngàn đồng) ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bị cáo chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Bảo lưu hồ sơ vụ án 02 biên nhận cầm đồ của tiệm cầm đồ Thiên Kim.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus thu giữ của bị cáo Cao Văn T.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/01/2019).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Cao Văn T chịu 3.315.000 (ba triệu ba trăm mười lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về