Bản án 41/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại Nhà văn hóa Khu dân cư B - T, phường C, thành phố C, tỉnh H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 44/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Đức K, sinh năm 1991 tại xã C, huyện B, tỉnh H; Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn Ô X, xã C, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức M (đã chết) và bà Đào Thị U, sinh năm 1966; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/3/2019, đến ngày 14/3/2019 thì bị tạm giam tại Trại tạm giam K - Công an tỉnh H. Có mặt.

* Người làm chứng:

- Bà Phạm Thị T, sinh năm 1947

Địa chỉ: Khu dân cư L, phường C, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Quang H, sinh năm 1963

Địa chỉ: Khu dân cư T - H, phường C, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 12/3/2019, Lê Đức K là người nghiện ma túy gặp một người thanh niên tên T (K không biết tên tuổi, địa chỉ của T) tại Nhà hàng 559 thuộc phường B, thành phố H, tỉnh H. Khi gặp nhau, K bảo với T “lấy cho em một ít” (ý K muốn hỏi mua ma túy đá của T). T trả lời “ừ”, K đưa cho T 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). T cầm số tiền K đưa cho và đi đâu đó. Khoảng 30 phút sau, T quay lại và bảo K lên xe máy của T để T chở về nhà T ở phường S, thành phố C, tỉnh H. Trên đường đi, T đưa cho K một túi nilon màu trắng, viền khóa màu xanh, bên trong có chứa ma túy đá. K cầm túi ma túy đá cất giấu vào túi quần đằng sau bên trái đang mặc. Khi đi đến trước cửa quán bà Phạm Thị T thuộc khu dân cư L, phường C, thành phố C, tỉnh H, T bảo K xuống xe mua chai nước uống còn T đi đâu thì K không biết. K xuống xe đi bộ vào quán bà T thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản thu giữ tại vị trí túi quần đằng sau bên trái Lê Đức K đang mặc có 01 (một) túi nilon màu trắng, viền khóa màu xanh, kích thước (2 x 2,5)cm bên trong chứa chất kết tinh màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 140/KLGĐ-PC09 ngày 15/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Lê Đức K gửi đến giám định khối lượng là 0,383 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 40/CT-VKS-CL ngày 23/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H đã truy tố bị cáo Lê Đức K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án: Tuyên bố bị cáo Lê Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/3/2019. Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho hủy bỏ số ma túy hoàn lại sau giám định là 0,286 gam, loại Methamphetamine và vỏ bao gói là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Đức K tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Vào hồi 15 giờ 20 phút, ngày 12/3/2019 tại khu dân cư L, phường C, thành phố C, tỉnh H, Lê Đức K đã có hành vi cất giữ trái phép 0,383 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an thành phố C, tỉnh H phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Lê Đức K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H truy tố bị cáo K là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng nhằm thỏa mãn cơn nghiện mà cất giữ ma túy bất hợp pháp. Hành vi của bị cáo đã góp phần làm cho tội phạm gia tăng, tiếp tay cho kẻ mua bán ma túy bất hợp pháp và làm mất trật tự, trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo mục đích giáo dục, trừng trị bị cáo, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung. Tuy vậy, khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng xem xét tới các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ sau: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo K thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không bán lại nhằm mục đích kiếm lời, không có thu nhập nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố C đã thu giữ số ma túy hoàn lại sau giám định là 0,286 gam Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 140/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho hủy bỏ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[6] Trong vụ án, K khai mua ma túy của người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ, qua điều tra chưa xác định được người đàn ông này là ai, cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ và xử lý sau

[7] Về án phí: Bị cáo K bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lê Đức K 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/03/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu cho hủy bỏ 0,286 gam là loại Methamphetamine, gói bằng giấy trắng, bên ngoài là túi nilon màu trắng đựng trong trong 01 phong bì niêm phong số 140/KLGĐ-PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, mặt sau của phong bì có (03) dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H và 03 chữ ký niêm phong mẫu.

(Tình trạng cụ thể của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan CSĐT- Công an thành phố C và Chi cục THADS thành phố C ngày 24/4/2019).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Đức K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về