Bản án 41/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 10-9-2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ngọc Hồi, xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST-HS ngày 05-7-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS ngày 15-8-2019, đối với bị cáo:

- Đinh T (tên gọi khác: BB), sinh ngày 27-3-1993, tại Quảng B; Nơi cư trú: T4, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông Đinh C và bà Nguyễn B; Tiền sự: Không; Tiền án: 02 tiền án: (Ngày 26-5-2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 06-6-2016 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt 12 tháng tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”); Nhân thân: Ngày 29-11-2012 bị Công an huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt hành chính với số tiền 3.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ các loại dao nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20-5-2015 bị Công an thị thị trấn PK, huyện NHxử phạt hành chính với số tiền 200.000 đồng về hành vi “Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác”. Ngày 24-5-2015 bị Công an huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Ngày 05-01-2017 Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi ra quyết đình chỉ vụ án đối với Đinh T về hành vi “Cố ý gây thương tích” do bị hại có đơn rút yêu cầu khởi tố. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09-01-2019 đến nay. (Có mặt).

- Người bị hại: Anh Nguyễn L, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Thôn I, xã PY, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn K, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

2. Chị Lê T L, sinh năm 1972; Nơi cư trú: T1, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

3. Bà Nguyễn B, sinh năm 1965; Nơi cư trú: T4, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Có mặt).

4. Anh Trịnh N, sinh năm 1995; Nơi cư trú: T6, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1. Anh Trương T, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

2. Anh Nguyễn V, sinh năm 2000; Nơi cư trú: T5, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

3. Anh Đinh Đ, sinh năm 1996; Nơi cư trú: T6, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

4. Anh Trần B, sinh năm 1984; Nơi cư trú: T6, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

5. Anh Lưu T, sinh năm 1999; Nơi cư trú: T6, thị trấn PK, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 04-12-2018 trong khi Đinh T, Nguyễn K, Trịnh N đang ăn nhậu tại quán 333 đường Hùng Vương, thị thị trấn PK, huyện NHthì Nguyễn Văn H và Nguyễn Hoàng T đến nói chuyện với K về việc K nợ tiền của T. Trong khi nói chuyện, T hỏi K “Mày muốn gì”.T nghe thấy và nói “Tao thích đánh nhau, bọn mày về đi, bọn mày sẽ gặp tao sớm thôi, đây là chỗ ăn nhậu không phải chỗ nói chuyện”. NgheT nói vậy, T và H bỏ về. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì nhóm củaT đến quán “Không gian xanh” để uống nước, khi đi K có cầm theo 01 cây gậy ba khúc bằng kim loại. Trong khi nhóm củaT đang uống nước thì H gọi điện cho K hỏi “mày đang ở đâu”. K trả lời đang ở quán “Không gian xanh”. Một lúc sau, thấy H điều khiển xe ô tô chạy ngang qua quán,T nghỉ H tìm mình để đánh nên nhờ Trương T và Nguyễn V chở đến nhà Nguyễn T T mượn 03 con dao. Cùng lúc này, K sợ H và T đến nhà mình quậy phá nên gọi xe ô tô của anh Trần B chở về nhà để xem xét tình hình. Sau khi mượn được dao,T quay lại quán “Không gian xanh” và không thấy K nên nói mọi người đi đến nhà K. Theo đó, Thắng chở Nam bằng xe mô tô đi trước, cònT cùng Đinh Đ, Việt đi bằng taxi. Khi xe taxi đến đường Hùng Vương, trị trấn PK thì gặp xe anh B đang chở K, nên Trường, Đ, Việt xuống xe taxi để qua xe anh B. Khi xe anh B đi đến gần nhà T, K nói anh B dừng xe lại. Cùng lúc này Nguyễn L cũng đến nhà T chơi nhưng do nhà đóng cổng nên L đứng ngoài chờ.T và K xuống xe đi đến trước nhà T, gần chỗ L đang đứng. Tại đây,T nói với L “Thằng Hồng gọi điện cho tao rồi, chuyện này không liên quan đến mày, nên mày tránh ra”. L đứng im, không nói gì. Thấy vậy,T cầm gậy ba khúc (đã duỗi dài ra) bằng tay phải giơ lên ngang hông rồi đánh mạnh theo hướng từ phải sang trái trúng vào khuỷu tay trái của L. Bị đánh đau, L ôm tay và ngồi bệt xuống đất. Ngay sau khi T đánh xong và bỏ đi thì K xông đến dùng dao chém từ trên xuống trúng vào vùng đầu làm vỡ mũ bảo hiểm của L đang đội. Thấy vậy,T nói với K “Nó không liên quan gì đừng đánh nó nữa” rồiT và K quay lại xe anh B. Lúc này T và N đi đến dùng chân, tay đánh L, thì Đ chạy đến can ngăn.

Sau khi bị đánh, L điện thoại nhờ Lưu T chở vào Bệnh viện Đa khoa khu vực Ngọc Hồi sơ cứu vết T, rồi đến Công an thị trấn Plei Kần trình báo sự việc. Sau đó, thấy tay trái của mình bị sưng to, đau nhức nên sáng ngày 05-12-2018 L đi chụp X quang thì phát hiện tay bị gãy.

Bản kết luận giám định số: 136/TgT-TTPY ngày 13-12-2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Kon Tum kết luận: Nguyễn L bị gãy trên lồi cầu ngoài cánh tay trái hạn chế gập duỗi khớp khủy, tỷ lệ T tật là 23%.

Tại bản Cáo trạng số: 34/CT-VKS ngày 05-7-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố Đinh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo các điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Đinh T khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân.

- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi thực hành quyền công tố khẳng định bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo Đinh T, là có căn cứ, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng các điểm d, đ khoản 2 Điều 134, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh T mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam.

+ Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho anh Nguyễn L 01 áo khoác bằng vải màu đen của nam giới nhãn hiệu Tianqi, size L; trả lại cho bị cáo 01 túi xách bằng da màu nâu bên ngoài có chữ Jeep – Horche.

+ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi đã thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền các thủ tục tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Đinh T khai nhận hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời Ki của bị hại và những người tham gia tố tụng khác; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở xác định: Vào tối ngày 04-12-2018, tại khu vực trước nhà Nguyễn Hoàng T, thuộc T2, thị trấn PK, huyện NH, Đinh T đã dùng cây gậy ba khúc đánh 01 phát trúng vào khuỷu tay trái làm gãy trên lồi cầu ngoài cánh tay trái của anh Nguyễn L, với tỷ lệ T tật là 23%. Khi thực hiện hành vi gây thương tích cho anh L, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của Đinh T đã đủ yêu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, giữa anh L vàT trước đó hoàn toàn không có mâu thuẫn, xích mích nhưng bị cáo đã vô cớ dùng cây gậy ba khúc bằng kim loại để đánh gây thương tích cho người bị hại. Bởi vậy, bị cáo phải chịu 02 tình tiết định khung hình phạt “Dùng hung khí nguy hiểm”, “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, và với tỷ lệ T tật của người bị hại là 23% thì Đinh T bị chuyển khung hình phạt, xét xử theo điểm đ khoản 2 điều luật vừa nêu. Bên cạnh đó, vào ngày 26-5-2015 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Kon Plong tuyên phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, nhưng trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật”. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù của hai bản án trước nhưng chưa được xóa án tích, nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộcT hợp “đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện phạm tội mới do cố ý” – đây là tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, mà bị cáo phải chịu.

Với những nhận định, phân tích ở trên đủ để khẳng định: Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố Đinh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d, điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; các tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, thấy rằng: Hành vi phạm tội của Đinh T là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại mà còn thể hiện bản tính hung hăng, coi thường pháp luật của bị cáo, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất B trong quần chúng nhân dân. Mặt khác, trước đây ngoài 02 lần bị Tòa án xét xử và 01 lần được đình chỉ vụ án, Đinh T còn nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Dù vậy, bị cáo không lấy đó làm bài học để tự cải tạo, sửa đổi bản thân. Vì vậy, cần xử phạt một mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian dài mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng nhằm để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cũng thấy rằng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn, hối cải; sau khi phạm tội bị cáo không có tài sản nhưng đã tích cực tác động mẹ đẻ là bà Nguyễn B thăm hỏi và bồi thường cho người bị hại Nguyễn L số tiền 8.000.000đồng. Ngoài ra, bị cáo còn được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, khi lượng hình cần áp dụng các quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Trong vụ án này, có Nguyễn K, Đinh Đ, Nguyễn V, Trương T, Trịnh N đi cùng Đinh T đến nơi bị cáo gây thương tích cho anh Nguyễn L. Tuy nhiên, giữa các đối tượng không có sự bàn bạc về việc thực hiện tội phạm; khiT đánh L, những người còn lại không tham gia, không có hành vi giúp sức. Nên K, Đ, Việt, Thắng, Nam không phải chịu chung hậu quả doT gây ra.

[6] Bên cạnh đó, sau khi T gây thương tích cho L, Nguyễn K có dùng dao chém gây thương tích cho L với tỷ lệ T tật là 01%. Tuy nhiên, do anh L có đơn đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không khởi tố Nguyễn K là đúng pháp luật. Riêng Trịnh N và Trương T có dùng chân tay đánh L nhưng không gây thương tích.

[7] Đối với anh Trần B – người điều khiển xe ô tô chở nhóm củaT đi đến nhà T. Do anh B không biếtT thuê xe vào mục đích phạm tội nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Trần B.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi nhận số tiền 8.000.000đồng do bà Nguyễn B bồi thường thay bị cáo Đinh T, người bị hại - anh Nguyễn L không yêu cầu gì thêm. Bà Nguyễn B không yêu cầu xem xét đối với số tiền đã bồi thường thay. Do vậy, Hội đồng xét xử không đề cập.

[9] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra có thu giữ: 01 áo khoác bằng vải màu đen của nam giới nhãn hiệu Tianqi, size L và 01 một túi xách bằng da màu nâu bên ngoài có chữ Jeep – Horche.

Xét thấy: Chiếc áo là tài sản của anh Nguyễn L nên trả lại cho chủ sở hữu. Chiếc túi xách là của Đinh T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đối với cây gậy ba khúc bằng kim loại mà Đinh T sử dụng khi phạm tội: Sau khiT gây án xong, Trịnh N mang về cất dấu và bị thất lạc. Trong quá trình điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

[10] Về án phí: Bị cáo bị phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đinh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng các điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Đinh T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 09-01-2019).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Trả lại cho anh Nguyễn L 01 áo khoác bằng vải màu đen của nam giới nhãn hiệu Tianqi, size L.

- Trả lại cho bị cáo Đinh T 01 túi xách bằng da màu nâu bên ngoài có chữ Jeep – Horche.

(Các vật chứng vừa nêu, như được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30-7-2019 giữa Công an huyện Ngọc Hồi với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hồi).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14);

- Buộc bị cáo Đinh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 10-9-2019), bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bán án theo thủ tục phúc thẩm. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về