Bản án 41/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại Nhà thiếu nhi huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm Lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST ngày 24 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Bá T, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1978 Nơi cư trú: thôn H3, xã L, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Bá Q, sinh năm 1954, cư trú tại thôn H3, xã L, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái BìnH và con bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1958 cư trú tại thị trấn D, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án; tiền sự: Không. Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 4/12. Ngày 24/01/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 05 tháng tù về tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản ”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 27/02/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại giam công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Bị hại Bà: Trần Thị Đ, sinh năm 1954 (Vắng mặt). Cư trú tại: thôn H4, xã L, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 18/01/2019, Trần Bá T đi bộ từ nhà đến thôn H4, khi đi qua nhà bà Trần Thị Đ, thấy cổng khóa và đoán không có người ở nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, T trèo qua tường rồi lén lút vào phòng khách nhà bà Đ trộm cắp 01 ti vi treo tường màn hình phẳng 43 inch, nhãn hiệu Pananonic, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, số tài sản trộm cắp trên Trung mang về nhà cất giấu rồi tiếp tục quay lại nhà nhà bà Đ theo lối cũ trộm cắp tiếp 25 kg đậu xanh chưa bóc vỏ, 01 ti vi nhãn hiệu Pananonic màn hình cong 21 inch, số tài sản trộm cắp này T vừa mang ra ngõ thì bị lực lượng tuần tra công an xã L phát hiện đưa về trụ sở Ủy ban nhân dân xã làm việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL- ĐG ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thái Thụy kết luận: Tổng số tài sản do Trung trộm cắp có giá trị là 4.480.000 đồng .

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Bá T không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận định giá nêu trên.

Bản cáo trạng số 36/CT-VKSTT ngày 22 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Trần Bá T về tội " Trộm cắp tài sản " quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Bá T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo:

Luận tội của Kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố với bị cáo về tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Bá T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Bá T từ 09 tháng đến 01 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Bị hại vắng mặt nhưng tại giai đoạn điều tra đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản tạm giữ tài liệu đồ vật; Đơn đề nghị và lời khai của bị hại; Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 18/01/2019, Trần Bá T vào nhà bà Trần Thị Đ trộm cắp 01 ti vi treo tường màn hình phẳng 43 inch, nhãn hiệu Pananonic, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; 25 kg đậu xanh chưa bóc vỏ, 01 ti vi nhãn hiệu Pananonic màn hình cong 21 inch. Tổng số tài sản T trộm cắp của nhà bà Đỉnh có trị giá là 4.480.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào “ Trộm cắp tài sản ” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ dến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

[5]. Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó cần thiết phải quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tài sản trộm cắp có giá trị không lớn đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có bố là ông Trần Bá Q có thời gian tham gia kháng chiến chống Mỹ, hiện đang hưởng chế độ chất độc màu da cam nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo nhận ra lỗi lầm đã phạm phải để phấn đấu trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[6]. Bị cáo làm nghề lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng đúng quy định của pháp luật.

[8].Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Trần Thị Đ đã nhận lại toàn bộ tài sản do bị cáo trộm cắp và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên trách nhiệm dân dân sự đã được giải quyết xong.

[9].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Trần Bá T phạm tội "Trộm cắp tài sản"

Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Bá T 10 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Bá T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

3. Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản bản được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về