Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 10/06/2019 về ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 41/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2019. Về việc: Tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1973; địa chỉ cư trú ấp Đ, xã A, huyện M, tỉnh V (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Phạm Kim T, sinh năm 1981; địa chỉ cư trú ấp Đ, xã A, huyện M, tỉnh V (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13 tháng 02 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Bá T trình bày: Vào năm 1999, anh và chị T kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh V ngày 02 tháng 4 năm 2001. Anh T cho rằng sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Nhưng đến năm 2013 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai người không hợp nhau dẫn đến thường xuyên gây cãi. Từ đó, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không khắc phục được nên anh và chị T đã ly thân từ tháng 9 năm 2013 cho đến nay. Anh T xác định hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nữa nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

Về nuôi con chung Anh T xác định anh và chị T có hai người con chung là Nguyễn Minh T, sinh ngày 08 tháng 10 năm 2000 và Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2007 hiện đang sống với anh. Khi ly hôn Anh T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Mỹ D và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Đối với Nguyễn Minh T đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Về chia tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình Anh T đã cung cấp cho Tòa án Giấy chứng nhận kết hôn số: 14, quyển số 01/2011 ngày 02 tháng 4 năm 2001 (Bản chính) và Trích lục khai sinh mang tên Nguyễn Minh T (Bản sao) và Nguyễn Thị Mỹ D( bản sao).

Tại tờ tự khai ngày 13 tháng 02 năm 2019 cháu Nguyễn Thị Mỹ D trình bày: Trường hợp cha mẹ cháu phải ly hôn thì cháu yêu cầu được sống với cha.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có thông báo cho bị đơn chị T biết việc thụ lý vụ án cũng như các yêu cầu của Anh T. Nhưng chị T không có văn bản trả lời, không có yêu cầu phản tố và vắng mặt tại các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải các ngày 18 tháng 3 năm 2019; ngày 02 tháng 5 năm 2019; phiên tòa ngày 23 tháng 5 năm 2019 và phiên tòa ngày hôm nay. Mặc dù đã được tống đạt triệu tập hợp lệ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Các đương sự tranh chấp ly hôn, về nuôi con là tranh chấp hôn nhân và gia đình; bị đơn chị T có nơi cư trú tại xã A, huyện M, tỉnh V. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện M thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2] Quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, mặc dù đã được triệu tập tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn chị T đều vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn chị T là đúng theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Vào năm 1999, Anh T và chị T kết hôn. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh V ngày 02 tháng 4 năm 2001. Vì vậy hôn nhân của Anh T và chị T là hợp pháp.

Xét; việc Anh T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai người không hợp nhau dẫn đến thường xuyên gây cãi. Từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trâm trọng, không khắc phục được. Mặc dù đã được gia đình hòa giải nhiều lần để cho hai người đoàn tụ chung sống với nhau nhưng không có kết quả. Hơn nữa, hiện nay Anh T xác định anh không còn tình cảm với chị T và hai người đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa Anh T và chị T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc Anh T yêu cầu được ly hôn với chị T là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại các Điều 9, 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Xét; Từ khi Anh T và chị T ly thân đến nay thì cháu Nguyễn Thị Mỹ D do Anh T nuôi dưỡng, cháu vẫn sống, phát triển và trưởng thành bình thường. Đồng thời, cháu Mỹ D cũng có nguyện vọng muốn được sống với cha. Vì vậy, xét việc Anh T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Mỹ D không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại các Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xét.

[2.4] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 9; 51; 56; 81; 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 24 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Bá T và chị Phạm Kim T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2007 cho anh Nguyễn Bá T nuôi dưỡng, chị Phạm Kim T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Phạm Kim T có quyền tới lui trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Bá T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006855 ngày 14 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, như vậy anh Nguyễn Bá T không phải nộp thêm tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được qui định theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HNGĐ-ST ngày 10/06/2019 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:41/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về