Bản án 41/2019/DS-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng (vay tài sản)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 41/2019/DS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG (VAY TÀI SẢN)

Trong ngày 25/10/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 469/2019/TLST-DS, ngày 22 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng (sự vay tài sản)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 186/2019/QĐXXST-DS ngày 18/9/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 138/2019/QĐST-DS ngày 08/10/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP A; đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị;

Đa chỉ: Đường A, phường B, Quận H, Thành phố Hà Nội.

Đơn vị được ủy quyền khởi kiện: Ngân hàng TMCP A – Chi nhánh Đồng Tháp; đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn P – Chức vụ: Giám đốc. Ông P ủy quyền cho chị Đoàn Thị Mỹ A – Chức vụ: Phó Giám đốc phụ trách Phòng giao dịch L; địa chỉ: đường L, phường H, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Võ Văn Đ, sinh năm 1981;

Đa chỉ: Tổ 23, ấp 4, xã B, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Thị H, sinh năm 1985;

Đa chỉ: Tổ 23, ấp 4, xã B, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn và người liên quan vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) A trình bày: Ngày 03/10/2017, Ngân hàng TMCP A – Chi nhánh Đồng Tháp và anh Võ Văn Đ có ký Hợp đồng tín dụng số 01/2017/8870407/HĐTD vay số tiền 1.000.000.000đ; thời hạn vay 06 tháng; mục đích vay bổ sung vốn lưu động kinh doanh trái cây; lãi suất 9,5%/năm và anh Đ, chị H có làm hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01/2016/8870407/HĐBĐ và 02/2016/8870407/HĐBĐ cùng ngày 25/10/2016 cho Ngân hàng để bảo đảm cho các khoản vay trên (quyền sử dụng đất diện tích 201m2, thửa 165, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại đường 3/2, thị trấn M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; quyền sử dụng đất diện tích 6.486m2, thửa 1030, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp 2, xã B, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và quyền sử dụng đất diện tích 9.729m2, thửa 557, tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại xã H, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp do anh Võ Văn Đ đứng tên quyền sử dụng). Tuy nhiên, trong quá trình vay anh Đ đã không thực hiện việc trả nợ đúng như hai bên đã thỏa thuận ký kết và Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu anh Đ trả nợ nhưng anh Đ vẫn không trả.

Nay Ngân hàng yêu câu anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng TMCP A sô tiên con nơ la 1.223.719.178 đông, trong đo, gôc 1.000.000.000 đông, lãi là : 223.719.178 đông (tính đến ngày 25/10/2019).

Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và sau khi bản án có hiệu lực pháp luật anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ số tiền vốn, tiền lãi và tiền lãi phạt chậm trả thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự kê biên bán đấu giá tài sản theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để ưu tiên thanh toán nợ cho Ngân hàng TMCP A.

Đi với bị đơn là anh Võ Văn Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị H đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo hòa giải và triệu tập xét xử hợp lệ nhưng không có văn bản ý kiến, không tham gia hòa giải và không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Tài liệu, chứng cứ do phía nguyên đơn cung cấp:

+ Hợp đồng tín dụng số 01/2017/8870407/HĐTD ngày 03/10/2017 (Bản sao y);

+ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01/2016/8870407/HĐBD ngày 25/10/2016 (Bản sao y);

+ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 02/2016/8870407/HĐBD ngày 25/10/2016 (Bản sao y);

+ Thông báo nợ đến hạn ngày 23/3/2018, ngày 04/4/2018 và ngày 14/5/2018 (Bản sao y);

+ Giấy đề ghị vay vốn; tờ cam kết ngày 04/4/2018 và ngày 14/5/2018 (Bản sao y);

+ Biên bản làm việc ngày 04/4/2018, ngày 14/4/2018 và ngày 14/5/2018 (Bản sao y);

+ Bảng kê tính lãi theo hợp đồng (bản chính);

- Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, xét thấy: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu anh Võ Văn Đ, chị Lê Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP A số tiền vốn vay 1.000.000.000đ và số tiền lãi 223.719.178 đồng (tính đến ngày 25/10/2019), tổng cộng vốn và lãi là 1.223.719.178 đồng và yêu cầu tính lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong nợ, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng (vay tài sản)” theo quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự.

[2] Về thẩm quyền, xét thấy: Tranh chấp về hợp đồng tín dụng (vay tài sản) giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nơi cư trú tại xã B, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vụ án nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về thời hiệu khởi kiện, xét thấy: Hợp đồng tín dụng (vay tài sản) giữa Ngân hàng TMCP A với anh Đ được xác lập vào ngày 03/10/2017 đến nay nguyên đơn khởi kiện là còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự.

[4] Về tố tụng: Đối với bị đơn là anh Võ Văn Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lê Thị H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời, tại phiên tòa đại diện Ngân hàng xác định trong vụ này ngoài số tiền trên thì Ngân hàng không tranh chấp số tiền nào khác và trong vụ án này chỉ liên quan đến các đương sự có tên trên, không liên quan đến đương sự nào khác.

[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xét thấy: Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP A khởi kiện yêu cầu anh Đ, chị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP A số tiền vốn vay 1.000.000.000đ và số tiền lãi 223.719.178 đồng (tính đến ngày 25/10/2019), tổng cộng vốn và lãi là 1.223.719.178 đồng và yêu cầu tính lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong nợ là có căn cứ, bởi lẽ: Vào ngày 03/10/2017, anh Võ Văn Đ có ký hợp đồng tín dụng (vay tài sản) với Ngân hàng TMCP A với số tiền vốn vay là 1.000.000.000đ; thời hạn vay 06 tháng; mục đích vay bổ sung vốn lưu động kinh doanh trái cây; lãi suất 9,5%/năm và anh Đ, chị H có ký 02 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất cùng ngày 25/10/2016 cho Ngân hàng để đảm bảo cho các khoản vay trên (quyền sử dụng đất diện tích 201m2, thửa 165, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại đường 3/2, thị trấn M, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; quyền sử dụng đất diện tích 6.486m2, thửa 1030, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp 2, xã B, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và quyền sử dụng đất diện tích 9.729m2, thửa 557, tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại xã H, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp do anh Võ Văn Đ đứng tên quyền sử dụng). Việc hai bên ký hợp đồng tín dụng (vay tài sản) và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là tự nguyện, không ai bị ép buộc. Sau khi vay thì anh Đ đã không thực hiện đúng việc trả nợ như hai bên đã thỏa thuận ký kết và Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu anh Đ trả nợ nhưng anh Đ vẫn không trả. Đối với yêu cầu chị H có nghĩa vụ liên đới cùng với anh Đ trả nợ cho Ngân hàng, thì chị H là vợ anh Đ và chị H cũng thống nhất ký tên vào 02 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo trả nợ cho khoản vay này. Do đó, việc Ngân hàng TMCP A khởi kiện yêu cầu bị đơn là anh Võ Văn Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lê Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP A số tiền vốn vay 1.000.000.000đ và số tiền lãi 223.719.178 (tính đến ngày 25/10/2019), tổng cộng vốn và lãi là 1.223.719.178 đồng là có căn cứ nên chấp nhận.

Đi với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, cụ thể: Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ số tiền vốn, tiền lãi và tiền lãi phạt chậm trả thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự kê biên bán đấu giá tài sản theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để ưu tiên thanh toán nợ cho Ngân hàng TMCP A, xét thấy: Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01, 02/2016/8870407/HĐBĐ cùng ngày 25/10/2016 với nội dung anh Đ thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất diện tích 201m2, thửa 165, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại đường 3/2, thị trấn M, huyện Cao Lãnh; quyền sử dụng đất diện tích 6.486m2, thửa 1030, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp 2, xã Bình B, huyện Cao Lãnh và quyền sử dụng đất diện tích 9.729m2, thửa 557, tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại xã H, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp do anh Võ Văn Đ đứng tên quyền sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho khoản nợ vay. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa hai bên đã được công chứng đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự đây là tình tiết không phải chứng minh nên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01, 02/2016/8870407/HĐBĐ cùng ngày 25/10/2016 có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện. Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu: Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ số tiền vốn, tiền lãi và tiền lãi phạt chậm trả thì Ngân hàng TMCP A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự kê biên bán đấu giá tài sản theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để ưu tiên thanh toán nợ cho Ngân hàng TMCP A là có căn cứ nên chấp nhận.

[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP A.

[7] Tại phiên tòa, đại diện của Ngân hàng xác định ngoài lời trình bày và các chứng cứ đã nộp cho Tòa án ra, thì Ngân hàng không còn chứng cứ nào khác và cũng không yêu cầu Tòa án thu thập thêm chứng cứ nào khác.

[8] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng TMCP A về việc yêu cầu anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP A số tiền 1.223.719.178 đồng nên anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H phải liên đới chịu 48.711.500 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

+ Ngân hàng TMCP A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, Ngân hàng TMCP A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 23.565.000đ theo biên lai số 0003104 ngày 19/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 429, 463, 466 của Bộ luật dân sự; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) A.

- Buộc anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) A số tiền 1.223.719.178 đồng (Một tỷ hai trăm hai mươi ba triệu bảy trăm mười chín nghìn một trăm bảy mươi tám đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận (ghi trong hợp đồng tín dụng ngày 03/10/2017), nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.

- Khi Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) A, nếu anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) A có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền bán đấu giá tài sản đang thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01, 02/2016/8870407/HĐBĐ cùng ngày 25/10/2016 để thu hồi nợ, cụ thể là quyền sử dụng đất diện tích 201m2, thửa 165, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc tại đường 3/2, thị trấn M, huyện Cao Lãnh; quyền sử dụng đất diện tích 6.486m2, thửa 1030, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp 2, xã B, huyện Cao Lãnh và quyền sử dụng đất diện tích 9.729m2, thửa 557, tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại xã H, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp do anh Võ Văn Đ đứng tên quyền sử dụng.

- Về án phí: Anh Võ Văn Đ và chị Lê Thị H phải liên đới chịu 48.711.500 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

+ Ngân hàng TMCP A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, Ngân hàng TMCP A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 23.565.000đ theo biên lai số 0003104 ngày 19/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.

- Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/DS-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng (vay tài sản)

Số hiệu:41/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về