Bản án 41/2018/HSST ngày 16/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 41/2018/HSST NGÀY 16/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 5 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2018/HSST ngày 8 tháng 2 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/HSST-QĐ ngày 6 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

Dương Văn L, sinh năm 1990 tại: huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Nơi cư trú: Xóm N, xã B , huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 09/12; Con ông: Dương Văn L1, sinh năm 1962; Con bà Dương Thị T, sinh năm 1965; Vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm1994; có 01 con sinh năm 2014.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Dương Văn L bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người bị hại: Chị Hoàng Thị Hồng P, sinh năm 1979

Nơi cư trú: Xóm K, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. ( Có mặt tại phiên tòa) tòa)

- Người làm chứng:

1. Ông Lưu Xuân T, sinh năm 1959

Nơi cư trú: Xóm K, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. ( Vắng mặt tại phiên tòa)

2. Anh Hà Mậu H, sinh năm 1977

Nơi cư trú: Xóm H, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. ( Vắng mặt tại phiên tòa)

3. Chị Dương Thị T, sinh năm 1976

Nơi cư trú: Xóm V, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên ( Vắng mặt tại phiên tòa)

4. Chị Hoàng Thị Thu T, sinh năm 1979

Nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên ( Vắng mặt tại phiên tòa)

5. Anh Tạ Văn T, sinh năm 1987

Nơi cư trú: Xóm N, xã S, huyện T, tỉnh Thái Nguyên ( Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 23/12/2015, Dương Văn L đến quán bán, may hàng quần áo của chị Hoàng Thị Hồng P để mua quần áo trẻ em. Sau khi chọn mua quần áo và trả tiền xong L nhờ chị P may lại chiếc áo da bị rách và ngồi chờ ngoài cửa. Trong khi chờ chị P may, sửa áo da thì L gặp bạn Đ làm nghề lái xe ôm, nhà Đ ở xóm Dinh, xã Bảo Lý đi xe mô tô qua và Đ nhìn thấy L và rủ L đi về nhà Đ chơi, L đồng ý và để lại túi quần áo vừa mua ở quán đi về nhà Đ chơi được khoảng 15 phút, rồi L đi nhờ xe quay lại cửa hàng của chị P. Khi vào quán thì chị P đang ở dưới tầng hầm, thấy không có ai nên L tự ý lấy túi quần áo mua của chị P và chiếc áo da thì L nhìn thấy ở trên tủ quần áo cạnh giường ngủ ở trong quán có một chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng loại 32 G đang cắm sạc nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại. Thực hiện ý định đó L đến gần dùng tay phải cầm sạc, tay trái rút chiếc điện thoại ra khỏi sạc và cho vào túi quần sau đó đi ra khỏi quầy hàng của chị P. Đồng thời, lúc này chị P đi từ dưới tầng hầm đi lên thì L nói với chị P “Chị cho em lấy túi quần áo”, chị P đồng ý, L đi bộ lên khu vực tam giác Cầu Mây và đi xe khách đi xuống xã Song Vân, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. L đã bán chiếc điện thoại trên cho anh Tạ Văn Thành, sinh năm 1987, trú tại: Xóm Ngò, xã Song Vân, huyện Tân Yên với giá 2.500.000 đồng và tiêu sài cá nhân hết. Sau khi bị mất chiếc điện thoại do nghi ngờ L đã lấy trộm, nên chị P đã đi tìm L nhưng không thấy, sau đó chị P trình báo đến Công an xã Xuân P và Công an huyện Phú Bình.

Ngày 04/4/2016, cơ quan Cảnh sát điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Dương Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” và ra lệnh bắt bị can để tạm giam nhưng L đã bỏ trốn khỏi địa P, nên cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra lệnh truy nã đối với L, ngày 14/9/2017 L ra đầu thú và bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Sau đó lại tiếp tục bỏ trốn đến ngày 01/01/2018 lại ra đầu thú và bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Tại bản Kết luận định giá số 14 ngày 18/02/2016 của Hội đồng định giá tài sản huyện Phú Bình kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng, loại32 GB có giá trị là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra Dương Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai nhận tội của L phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án là: 01 chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng – loại 32 GB đã qua sử dụng. L đã bán và lấy tiên tiêu sài cá nhân, hiện không thu hồi được.

Bản Cáo trạng số 18/KSĐT ngày 8 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình truy tố bị cáo Dương Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Phú Bình đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt đối với bị cáo Dương Văn L từ 9 ( chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày1/1/2018

* Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

* Phần bồi thường dân sự: Qúa trình điều tra, Dương Văn L và gia đình đã bồi thường cho chị P số tiền 5.000.000 đồng, chị P không yêu cầu bồi thường gì thêm.

*Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Dương Văn L không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì thêm về hành vi phạm tội của mình; xác định việc truy tố xét xử là không oan, đúng người đúngtội; nay bị cáo đã ăn năn hối cải đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo đượchưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2]Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Dương Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, vật chứng thu giữ và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 23/12/2015, tại khu vực Xóm K, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, lợi dụng sơ hở của chủ tài sản bị cáo Dương Văn L có hành vi trộm cắp của chị Hoàng Thị Hồng P 01 chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng – loại 32 GB đã qua sử dụng. Giá trị tài sản là: 4.000.000đ ( Bốn triệu đồng) . Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

[3]Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa P.

[4]Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Do vậy hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo đã ra đầu thú và tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo cho nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quyy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đồng đến 50.000.000đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, không có thu nhập, đang ở cùng với gia đình nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [6]Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị cáo và gia đình đã bồi thường cho người bị hại là chị Hoàng Thị Hồng P số tiền 5.000.000đ ( năm triệu đồng), chị P không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.

 [7] Mức án mà vị đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp

 [8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [9] Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Dương Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i ,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Dương Văn L 9 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2018

Áp dụng điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự: Tiếp tục giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015

- Ghi nhận việc bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại là chị Hoàng Thị Hồng P số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Dương Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo,người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HSST ngày 16/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về