Bản án 41/2018/HS-PT ngày 07/02/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 41/2018/HS-PT NGÀY 07/02/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 326/2017/HSPT ngày 20/11/2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kim L do có kháng cáo của bị cáo L đối với bản án hình sự sơ thẩm số 125/2017/HSST ngày 29/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Kim L, sinh ngày 05 tháng 01 năm 1996 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký NKTT: Ấp 3, xã Xuân H, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: Ấp 3, xã Xuân H, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Họ tên cha: Nguyễn Văn D (đã chết) ; Họ tên mẹ Ngô Thị H; có chồng là anh Phan Văn C và 01 con sinh năm 2013; Tiền án: không; Tiền sự: không; hiện bị cáo đang tại ngoại.

Ngoài ra vụ án còn có người bị hại là Lê Thành Đ (đã chết), người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Lê Thành Đ1 (cha ruột) và bà Nguyễn Thị Thu T (mẹ ruột), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Hùng Thái C1. Do đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo nên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai không triệu tập tham gia phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 14/10/2016, Nguyễn Thị Kim L là người không có giấy phép lái xe, đã điều khiển xe môtô biển số 60B5 – 349.85 lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng Bình Thuận đi thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến Km 1773 + 100 Quốc lộ 1A thuộc ấp 3, xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai thì L điều khiển cho xe dừng bên lề đường thuộc làn đường dành cho xe không có động cơ bên phải, bật xi nhan trái báo hiệu xin qua đường. Quan sát trước sau thì L phát hiện có 01 xe môtô đang lưu thông từ phía sau tới cách vị trí mình khoảng chừng 20m. Vì nghĩ khoảng cách giữa hai xe còn xa nên L điều khiển cho xe từ từ chuyển hướng sang bên trái đường, khi xe vừa di chuyển được một nửa qua làn đường dành cho xe có động cơ bên phải thì cùng lúc đó xe mô tô biển số 60B5 – 339.64 do Lê Hùng Thái C1, sinh ngày 10/11/1999, ngụ tại ấp 2, Xuân H, Xuân L, Đồng Nai điều khiển chở theo Lê Thành Đ, sinh ngày 26/01/2000, ngụ tại ấp 3, Xuân H, Xuân L, Đồng Nai lưu thông cùng chiều tới va chạm gây tai nạn giao thông. Hậu quả Lê Thành Đ bị thương được đưa đi cấp cứu và chết tại Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 06 giờ ngày 16/10/2016.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 125/2017/HSST ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim L phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Kim L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/10/2017, bị cáo Nguyễn Thị Kim L kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm do hành vi bị cáo chưa đến mức xử lý trách nhiệm hình sự và đề nghị xem xét trách nhiệm hình sự của Lê Hùng Thái C1 về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Bị cáo L khi điều khiển xe môtô chuyển hướng nhưng quan sát không kỹ, không nhường đường và không đảm bảo an toàn vi phạm khoản 2 Điều 15, khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 02 năm tù là phù hợp.

Đối với Lê Hùng Thái C1 có hành vi điều khiển xe mô tô nhưng có lỗi là vượt xe không đảm bảo an toàn vi phạm khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ, không giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) vi phạm khoản 1 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015, đi sai làn đường quy định vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ. Do đó hành vi của C1 có dấu hiệu của tội “Vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Điều 202 Bộ luật hình sự. Việc cấp sơ thẩm chưa điều tra và xử lý trách nhiệm hình sự đối với C1 là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 14/10/2016, bị cáo Nguyễn Thị Kim L vốn là người không có giấy phép lái xe theo quy định, đã điều khiển xe ôtô biển số 60B5- 349.85 chuyển hướng không bảo đảm an toàn theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ nên đã va chạm với xe mô tô biển số 60B5-339.64 do Lê Hùng Thái C1 điều khiển chở theo Lê Thành Đ lưu thông cùng chiều. Hậu quả là anh Lê Thành Đ bị thương, được đưa đi cấp cứu và chết tại Bệnh viện Chợ Rẫy ngày 16/10/2017. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a (Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định) khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim L về việc bị cáo cho rằng việc dựng lại hiện trường của cơ quan điều tra là không khách quan, không đúng với diễn biến của vụ án nên không thể sử dụng chứng cứ này để xét xử: Hội đồng xét xử xét thấy do tại thời điểm xảy ra vụ việc, hiện trường đã bị xáo trộn, thay đổi nên việc dựng lại hiện trường của cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc là cần thiết, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, tại Sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông dựng lại (bút lục 23) đã thể hiện có những người chứng kiến gồm bị cáo Nguyễn Thị Kim L, anh Lê Hùng Thái C1, anh Nguyễn Văn L tham gia và không có ý kiến phản đối nào. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, ý kiến kháng cáo của bị cáo về việc dựng lại hiện trường không khách quan là không có căn cứ chấp nhận.

[3] Đối với kháng cáo của bị cáo cho rằng việc không xem xét hành vi của anh Lê Hùng Thái C1 là bỏ lọt tội phạm: Xét thấy trong vụ tai nạn giao thông này, bị cáo là người có lỗi khi có hành vi sang đường, chuyển hướng xe nhưng không đảm bảo an toàn cho người và các phương tiện khác (quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật Giao thông đường bộ). Tuy nhiên đối với việc xem xét trách nhiệm hình sự của Lê Hùng Thái C1 thấy rằng: Tại lời khai của Lê Hùng Thái C1 (bút lục 94-110) đều thừa nhận trước khi xảy ra tai nạn, C1 đã thấy có xe phía trước (là xe do bị cáo L điều khiển) đang chạy chậm và có bật đèn tín hiệu rẽ trái khi ở khỏang cách 30m-40m nhưng do C1 nghĩ L sẽ nhường đường nên C1 đã tăng tốc xe để vượt qua xe L. Khi xe C1 chạy đến gần xe L thì xe L lại tiếp tục rẽ trái. Do khoảng cách gần và tốc độ nhanh nên xảy ra va chạm giữa hai xe.

[4] Điều này cho thấy, bản thân C1 tuy đã phát hiện xe chị L trước mặt ở khỏang cách xa, đồng thời lúc này xe chị L có bật đèn tín hiệu xin rẽ trái và đang di chuyển về phía bên trái, C1 cũng thấy tín hiệu của xe chị L nhưng C1 vẫn chủ quan khi điều khiển xe vượt qua xe chị L. Hành vi của Lê Hùng Thái C1 đã có dấu hiệu vi phạm Luật giao thông đường bộ quy định tại khoản 2 Điều 14 Vượt xe “Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải”. Cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án đã đánh giá không đúng về mức độ, tính chất hành vi của Lê Huỳnh Thái C1. Vì tuy bị cáo L có lỗi khi thực hiện việc chuyển hướng xe thiếu quan sát và thiếu dứt khoát nhưng việc không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Lê Huỳnh Thái C1 đã vi phạm quy tắc giao thông đường bộ theo Luật Giao thông đường bộ là thiếu sót. Ngoài ra cấp sơ thẩm cũng đã không làm rõ tốc độ xe do C1 điều khiển vào thời điểm xảy ra tai nạn có vi phạm quy định về tốc độ cho phép hay không.

[5] Xét thấy do cấp sơ thẩm đã không xem xét trách nhiệm hình sự của Lê Huỳnh Thái C1 là có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội và do việc điều tra của cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được nên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

[6] Đối với ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa, xét thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 125/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc để điều tra lại theo thủ tục chung.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Kim L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HS-PT ngày 07/02/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:41/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về