Bản án 41/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 41/2017/HSST NGÀY 22/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 14 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2017, tại Hội trường Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 36/2017/HSST ngày 22/11/2017 đối với bị cáo: Dương Ngọc H - Sinh ngày: 06/9/1991.

Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố A, thị trấn P, Huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn H1: Lớp 9/12

Con ông: Dương Huy B (Đã chết).

Con bà: Nguyễn Thị S, sinh năm 1967

Vợ: Hoàng Thị H, sinh năm 1992 (Đã ly hôn). Con: Có một con sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2017, nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Trịnh Công H1 – sinh năm 1966; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Địa chỉ: Thôn M, xã X, Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo Dương Ngọc H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Dương Ngọc H sinh năm 1991 tại xã C, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ dân phố A, thị trấn P, Huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Do có quan hệ quen biết với Nguyễn Văn T, sinh năm 1986, trú tại thôn C, xã X, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh nên H thường đến chơi và ở lại nhà T. Bản thân H nhiều lần chứng kiến T sử dụng ma túy và bán ma túy cho các đối tượng nghiện. Chiều ngày 25/9/2017, H đến nhà T chơi rồi ngủ lại đó đến sáng ngày 26/9/2017 đi giúp ông Nguyễn Đình L bố đẻ của T thu hoạch sắn, sau đó H về phòng ngủ của T nằm chơi. Khoảng 9 giờ ngày 26/9/2017, H đang có hành vi bán trái phép chất ma túy1cho Trịnh Công H1, sinh năm 1966, trú tại thôn M, xã X, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh tại cổng gia đình ông Nguyễn Đình L, bố đẻ của T thì bị Công an huyện Nghi Xuân phối hợp với Đồn Biên phòng Lạch Kèn phát hiện và bắt quả tang. Kiểm tra trong túi quần sau bên trái Trịnh Công H1 đang mặc phát hiện một gói chất bột màu trắng được gói bằng giấy ô li màu trắng. Theo lời trình bày của H1 thì H1 gọi điện thoại cho Nguyễn Văn T hỏi mua ma túy để sử dụng, T đồng ý bán nên H1 đi đến trước cổng nhà T thì được H giao cho gói ma túy này với giá 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng). Kiểm tra người Dương Ngọc H, phát hiện trong túi quần sau bên phải của H đang mặc có 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) gồm 02 tờ polime mệnh giá 100.000đ(Một trăm nghìn đồng). Theo lời trình bày của H, đây là số tiền H vừa bán ma túy cho H1 mà có, gói ma túy này T nhờ H đưa cho H1 và lấy tiền vào cho T. Quá trình lực lượng Công an bắt giữ H1 và H, Nguyễn Văn T đã bỏ chạy.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T trong nhà ông Nguyễn Đình L cơ quan điều tra đã phát hiện và thu giữ bốn gói chất bột màu trắng thu dấu trong bì đựng rác màu da cam dưới chân giường trong phòng ngủ của Thống.

Tại kết luận giám định số 119/KLGĐ-PC54 ngày 27/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Gói chất bột màu trắng thu giữ trên người Trịnh Công H1 có trọng lượng 0,0250 (không phẩy không hai năm mươi) gam là heroin.

Bốn gói chất bột màu trắng thu giữ trong buồng ngủ của Nguyễn Văn T có trọng lượng 0,1820 (không phẩy một tám hai mươi) gam là heroin.

Heroin là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Vật chứng của vụ án:

Tổng trọng lượng heroin là 0,2070 (không phẩy hai không bảy không) gam, sau khi lấy mẫu giám định, còn lại 0,1572 (không phẩy một năm bảy hai) gam;

Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Các vật chứng này hiện đang thu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân.

Bản cáo trạng số 39 ngày 17/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Dương Ngọc H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Dương Ngọc H từ 24 đến 30 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Trong quá trình điều tra cũng như2tại phiên tòa hôm nay bị cáo Dương Ngọc H đều khai nhận tội đúng như nội dung của bản cáo trạng đã nêu ở trên. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Xét năng lực chịu trách nhiệm hình sự và hành vi bán ma túy trái phép cho Trịnh Công H1 của bị cáo thì đã có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Dương Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó đã xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội; Xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và lây lan tệ nạn nghiện ma túy. Do đó cần phải xử phạt nghiêm và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Tuy vậy khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự.

Trong vụ án này có Trịnh Công H1 là người đã mua ma túy của H để sử dụng nhưng số ma túy thu giữ từ đối tượng chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Xuân đã lập hồ sơ xử phạt hành chính.

Nguyễn Văn T theo lời khai của H, là người trực tiếp liên lạc với đối tượng nghiện và nhờ H đưa ma túy giao bán rồi lấy tiền, trong phòng ngủ của T cũng phát hiện có heroin. Nhưng do T đang bỏ trốn chưa bắt được nên chưa đủ cơ sở để xác minh làm rõ về hành vi của T, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Về vật chứng: Cần áp dụng khoản 1; điểm a, điểm c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm b khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự: Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) thu của Dương Ngọc H là tiền do phạm tội mà có; Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ trong vụ án vì đây là vật cấm lưu hành.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Dương Ngọc H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt Dương Ngọc H 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1; điểm a, điểm c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm b3 khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự: Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) thu của Dương Ngọc H là tiền do phạm tội mà có; Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ trong vụ án vì đây là vật cấm lưu hành. (đặc điểm và số lượng vật chứng được ghi nhận theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Xuân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ngày 14/11/2017).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Dương Ngọc H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo lên tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về