Bản án 411/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 411/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 369/2020/TLST- HS ngày 21 tháng 8 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 415/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Trần Văn T, sinh năm 1974 tại tỉnh Bắc Giang; thường trú: thị trấn Ea Súp, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn B, (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ú, sinh năm: 1948; có 05 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm: 1968, nhỏ nhất sinh năm 1980; tiền sự: Không:

Tiền án: Ngày 19/8/2008 Bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xử phạt 30 tháng tù, phạt bổ sung 5.000.000 đồng về tàng trữ trái phép chất ma túy, Bản án 29/2008/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/10/2010:

Nhân thân:

+ Ngày 10/01/1998 Công an huyện L, tỉnh Bắc Giang lập hồ sơ sưu tra theo dõi về hành vi cố ý gây thương tích.

+ Ngày 11/3/2004, Tòa án nhân dân huyện D (nay là thành phố D) tỉnh Bình Dương xử phạt 04 tháng 29 ngày tù về tội: Trộm cắp tài sản. Bản án số 28/HSST/2004.

+ Ngày 12/10/2012, Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đăk Lăk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội: Mua dâm người chưa thành niên. Bản án số 36/HSST/2012. Chấp hành xong bản án ngày 09/4/2013.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2020 cho đến ngày 12/8/2020 được trả tự do cho gia đình bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thái H, sinh năm 1993 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; thường trú: phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1965 và bà Lê Thị H, sinh năm 1970; có 03 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm: 1990, nhỏ nhất sinh năm: 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 12/5/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Vũ Văn Phong, sinh năm: 1992; vắng mặt.

2. Nguyễn Thành Chiến, sinh năm 1983; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn T, Nguyễn Thái H và Lê Vũ P sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 12/5/2020, H và P đến nhà nghỉ N, thuộc khu phố N, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương thuê phòng số 401 để nghỉ. Sau khi thuê phòng 401, P đi ra ngoài đi chơi, H ở lại một mình trong phòng. Đến 21 giờ cùng ngày, P đưa thêm T về phòng 401 nhà nghỉ N để nghỉ. Khi vào phòng 401, T nói với H lấy ma túy đá trong gói thuốc lá Jet ra sử dụng. H mở gói thuốc ra không thấy ma túy mà chỉ có 01 cái nỏ thủy tinh và 01 bật lửa. T lấy trong cái ví da của T ra và lấy 01 gói ma túy đá ra đưa cho H để sử dụng. Sau khi lấy ma túy từ T, H bỏ gói ma túy lại trên bàn phòng 401 và đi lấy dụng cụ sử dụng ma túy. Đến 22 giờ ngày 12/5/2020, H lấy gói ma túy để trên bàn và chuẩn bị sử dụng thì Công an phường D phối hợp với đội Cảnh sát quản lý hành chính, đội Cảnh sát kinh tế và ma túy thành phố D phối hợp, kiểm tra nhà nghỉ N phát hiện, nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thái H và tạm giữ vật chứng. Ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Văn T.

Trần Văn T thừa nhận gói ma túy thu giữ, có nguồn gốc gói ma túy đá là của người bạn tên Á (chưa rõ lai lịch) bạn của T cho để sử dụng.

Vật chứng thu giữ: 01 gói ny long chứa chất tinh thể màu trắng H khai là ma túy đá khối lượng 0,2491 gam, 01 nỏ thủy tinh, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, 01 bật lửa màu trắng, 01 bật lửa màu vàng.

Theo kết luận giám định số 291 ngày 19/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu thinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Thái H gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2491 gam loại Methampetamine.

Đối với Lê Vũ P không có căn cứ chứng minh là đồng phạm trong vụ án.

Nhưng P là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối phong số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thông báo về địa phương quản lý giáo dục.

Đối với tên Á cho T gói ma túy hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại cáo trạng số 404/CT–VKS ngày 20 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trần Văn T và Nguyễn Thái H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Trần Văn T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Nguyễn Thái H mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, đề nghị:

Bì thư niêm phong bên trong chứa 0,1837 gam ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 nỏ thủy tinh, 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet, 01 bật lửa màu trắng, 01 bật lửa màu vàng cần tịch thu, tiêu hủy.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Tại cơ quan điều tra người chứng kiến không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 22 giờ ngày 12/5/2020, tổ kiểm tra Công an phường D phối hợp với đội cảnh sát quản lý hành chính, đội cảnh sát kinh tế và ma túy thành phố D phối hợp kiểm tra nhà nghỉ N tại số khu phố N, phường D, thành phố D, Bình Dương phát hiện Trần Văn T và Nguyễn Thái H tàng trữ 01 gói ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2491 gam. Như vậy, hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 404/CT–VKS ngày 20 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo nhân xấu, nghiện ma túy; bị cáo Trường đã từng bị Tòa án xét xử nhiều lần.

[7] Xử lý vật chứng: Bì thư niêm phong bên trong chứa 0,1837 gam ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 nỏ thủy tinh, 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet, 01 bật lửa màu trắng, 01 bật lửa màu vàng cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành nên không xem là đồng phạm có tổ chức.

[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Đối với người tên Á cho T gói ma túy hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Đối với Lê Vũ P không có căn cứ chứng minh là đồng phạm trong vụ án. Nhưng P là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối phong số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và thông báo về địa phương quản lý giáo dục.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T và Nguyễn Thái H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2020 cho đến ngày 12/8/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,1837 gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 nỏ thủy tinh, 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet, 01 bật lửa màu trắng, 01 bật lửa màu vàng (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Trần Văn T và Nguyễn Thái H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 411/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:411/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về