Bản án 403/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 403/2020/HS-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 368/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 393/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Trần Văn V, sinh 08/11/2001 tại Nghệ An. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: Xóm BT, xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Công nhân. Chức vụ (đoàn thể, đảng phái): Không. Con ông Trần Văn T, sinh năm 1968 và bà Hồ Thị V, sinh năm 1978. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 và chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt, tạm giam từ ngày từ ngày 21/3/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn V là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 22 giờ ngày 20/3/2020, V đi đến khu vực bãi đất trống thuộc khu phố Thiên Bình, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, mua của người tên Triển (không rõ lai lịch) 03 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, V đem về phòng trọ số 9 nhà không số thuộc tổ 13, khu phố Thiên Bình, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, vào nhà vệ sinh lấy một phần ma túy sử dụng, phần còn lại V cất giấu để sử dụng dần.

Đến 00 giờ 15 phút ngày 21/3/2020, khi V đang ở phòng trọ số 9 và cất giấu 03 gói ma túy vào trong túi quần sau bên phải V đang mặc cùng 01 nỏ thủy tinh bên trong còn sót lại một ít ma túy để trên nền trong nhà vệ sinh thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng trong vụ án, gồm: 03 (ba) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 nỏ thủy tinh bên trong có chứa tinh thể màu trắng (Trần Văn V khai là ma túy tổng hợp –hàng đá) đã được niêm phong có chữ ký của V và dấu mộc của Công an phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa.

Tại Kết luận giám định số 587/KLGĐ-PC09 ngày 26/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3944 gam, loại Methamphetamine”.

Tại cáo trạng số 368/CT-VKSBH, ngày 26/6/2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Trần Văn V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nêu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ 14 đến 18 tháng tù. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo:

Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 21/3/2020, tại phòng trọ số 9 nhà không số thuộc tổ 13, khu phố Thiên Bình, phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, Trần Văn V có hành vi tàng trữ trái phép 0,3944 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tam Phước kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt; không có tiền án, tiền sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[4] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp.

[7] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:

Đối với đối tượng tên Triển (chưa rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[8] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Trần Văn V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/3/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 gói niêm phong số 587, ngày 26/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. (Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Văn V phải nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 403/2020/HS-ST ngày 31/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:403/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về