TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 402/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại Hội trường 07, trụ sở Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 377/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 410/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
- Nguyễn Thanh C, sinh năm 1992 Nơi cư trú: ấp Đông Hải, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1970 và bà Lương Thị Mai H, sinh năm 1972; bị cáo là con thứ 1 trong gia đình có 03 anh em và chưa có vợ con.
Tiền án; Tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/4/2020, sau đó chuyển tạm giam theo lệnh số 610 ngày 07/5/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa và bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh C là người có sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 29 tháng 4 năm 2020, C đi đến khu vực giáo xứ Ngọc Đồng thuộc phường Tân Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mua 01 gói ma túy tổng hợp hàng đá với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) của người đàn ông tên Khang (không rõ họ và địa chỉ), sau đó C cất giấu gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái để nhằm mục đích sử dụng. Đến khoảng 01 giờ 10 phút ngày 30 tháng 4 năm 2020, C điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu xám đen (không gắn biển số) đi đến khu vực trước nhà nghỉ “Mai Phương Thúy” thuộc tổ 2, khu phố 1, phường Tân Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an phường Tân Hiệp kiểm tra, phát hiện trên người C có gói ma túy trên nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý.
Vật chứng vụ án gồm:
- 01 (một) gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, thu giữ của bị cáo C;
- 01 (một) chiếc xe môtô hiệu Yamaha Sirius màu xám đen (không gắn biển số, số máy: E32VE-134551, số khung: RLCUE3740LY042297), thu giữ của bị cáo C, là tài sản của bà Nguyễn Thị L (sinh năm1976, ngụ tại: Ấp Đông Hải 2, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, Đồng Nai) mới mua, chưa đăng ký biển số; vào ngày 29/4/2020 bà L giao xe con trai là Hoàng Ngọc Th (sinh năm 1998) sử dụng. Sau đó, anh Th giao xe cho C mượn, bà L và anh Th không biết C sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trao trả xe cho bà L;
- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng, số Imei 1: 863897038364159, số Imei 2: 863897038364142, có gắn 02 sim số thuê bao: 0337455665 và 0345044371, thu giữ của bị cáo C, là tài sản của chị Nguyễn Phượng Nguyên (sinh năm 2002, ngụ tại: Ấp Đông Hải, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, Đồng Nai) là em ruột của bị cáo C. Chị Nguyên cho bị cáo C mượn để sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả điện thoại cho chị Nguyên.
Tại bản Kết luận giám định số 837/KLGĐ-PC09 ngày 06/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,3382 gam, loại Methamphetamin”.
Tại bản Cáo trạng số 393/CT-VKS-HS ngày 06/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 01, Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo C từ 01 năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh C thừa nhận hành vi của mình như cáo trạng đã truy tố. Với mục đích tàng trữ để sử dụng dần, C đã cất giấu 0,3382 gam ma túy, loại Methamphetamin. Hành vi của bị cáo C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 01, Điều 249 Bộ luật Hình sự. Ma túy là hiểm họa, là nguồn gốc của nhiều tội phạm khác, bị cáo C đủ năng lực nhận thức để biết được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, mà vẫn cố tình vi phạm và bị cáo đã từng phải đi cai nghiện bắt buộc nhưng không từ bỏ được ma túy. Do đó, bị cáo C phải chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân và phải chịu mức hình phạt tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội, trên cơ sở Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là không có.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 01, Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[2]. Về xử lý vật chứng:
Đối với các vật chứng trong giai đoạn điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã hoàn trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định pháp luật.
Lượng ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,2914 gam cần tịch thu tiêu hủy.
[3]. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo xác định không bị ép cung hay dùng nhục hình, lời khai của bị cáo là chính xác và hoàn toàn tự nguyện. Đối chiếu các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là đúng quy định của pháp luật.
[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm, theo quy định.
[5]. Đối với đối tượng tên Khang (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho C, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 135, 136, 288, 289, 292, 298, 299 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Áp dụng điểm c khoản 01, Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh C 01 (Một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/4/2020.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 1,0847 gam ma túy còn lại sau giám định, được đặt trong gói niêm phong số 837 ngày 06/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai.
(Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu ngày 16/7/2020).
Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Án sơ thẩm hình sự xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 402/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 402/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về