Bản án 40/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM

 BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/HSST-QĐ ngày 20/5/2021, đối với bị cáo:

- Trần Văn Đ - sinh năm 2000; nơi cư trú: thôn BL, xã TP, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị Nh vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 03/01/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV; địa chỉ: tầng ..., tòa nhà REE Tower, số 9 đường ĐVB, phường ..., quận .., Thành phố Hồ Chí Minh; người đại diện theo pháp luật: ông Lô Bằng G - chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên; người đại diện theo ủy quyền: ông Lý TA - chức vụ: Giám đốc Trung tâm an ninh; người đại diện theo ủy quyền lại: ông Nguyễn Văn C - chức vụ: Chuyên viên Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bà Trần Thị Nh - sinh năm 1972; nơi cư trú: thôn BL, xã TP, huyện TL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

3. Anh Nguyễn Văn T - sinh ngày 28/7/2003; người đại diện hợp pháp: bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1977 (là mẹ đẻ của anh T); cùng nơi cư trú: tổ dân phố NT, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người làm chứng: ông Phạm Văn V - sinh năm 1981; vắng mặt.

* Người chứng kiến: ông Đinh Xuân Th - sinh năm 1963; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 50 phút ngày 28/12/2020, tổ công tác của Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Thanh Phong tuần tra, kiểm soát trên tuyến Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Ba Làng, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, thì phát hiện 02 thanh niên là Trần Văn Đ và Nguyễn Văn T có biểu hiện nghi vấn, nên tiến hành kiểm tra. Thấy vậy, T bỏ chạy và vứt lại 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 02 túi nilon (Đ khai là ma túy). Lực lượng Công an đã đưa Trần Văn Đ cùng toàn bộ tang vật về trụ sở UBND xã Thanh Phong và tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Quá trình điều tra, Trần Văn Đ khai nhận: khoảng 01 giờ 10 phút ngày 28/12/2020, Đ đang ở phòng trọ của anh Phạm Văn P tại thôn PN, xã TP, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì nhận được cuộc gọi từ số thuê bao di động 081901... đến số thuê bao di động 085680... của Đ, người nam giới gọi đến tự giới thiệu tên Tuấn bạn của Phương (Phương là người Đ quen biết qua mạng xã hội), Tuấn hỏi Đ mua 01 chỉ ke và 05 viên kẹo (đều là loại ma túy tổng hợp). Lúc này, do không có ma túy để bán, nên Đ bảo Tuấn chờ để Đ đi hỏi xem rồi liên lạc lại sau. Trao đổi xong với Tuấn, Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 90B3-22... đi đến khu vực cây xăng Đức An và rẽ theo lối đi vào nhà nghỉ DD thuộc thôn PN, xã TP thì gặp một người nam thanh niên tên C đang đứng ở cầu (trước đó Đ đã gặp C ở quán nước khu vực cây xăng Đức An, Đ biết C sinh năm 1996 nhưng không biết cụ thể lai lịch của người này và C có bảo Đ khi nào có nhu cầu mua ma túy thì gặp C). Đ đi đến gần C và hỏi: “anh có đồ không, em có khách lấy một chỉ ke và năm viên kẹo?”, C trả lời: “có”, rồi đưa cho Đ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có chứa nhiều loại ma túy và bảo Đ: “mày thu của khách về bốn triệu hai trăm nghìn đồng, tao sẽ cho mày ba trăm nghìn đồng tiền công đi bán ma túy”. Đ cầm vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa ma túy, rồi gọi điện thoại thông báo cho người tên Tuấn biết có ma túy và hẹn giao dịch mua bán ở khu vực Dốc Bói, xã Thanh Phong, thì Tuấn đồng ý. Gọi điện cho Tuấn xong, Đ điều khiển xe đi về phòng trọ thì gặp Nguyễn Văn T đang ngồi chơi game. Đ rủ T: “đi chơi với anh một tý”, T hỏi: “đi đâu?”, thì Đ trả lời: “đi chơi một tý”. T đồng ý và ngồi sau xe mô tô do Đ điều khiển đi theo Quốc lộ 1A hướng Ninh Bình. Khi đi đến khu vực quán Karaoke D thuộc thôn PN, xã TP thì Đ điều khiển xe đi chậm lại rồi đưa cho T vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có chứa ma túy và bảo: “cầm hộ anh bao thuốc”, T cầm bao thuốc Đ đưa ở bàn tay phải và cũng không mở ra kiểm tra bên trong bao thuốc. Đến khoảng 01 giờ 50 phút cùng ngày, cả hai đi đến khu vực Dốc Bói thuộc địa phận thôn Ba Làng, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì Đ dừng xe lại. T đứng cạnh xe mô tô, còn Đ xuống xe đi bộ về phía trước cách chỗ T đứng khoảng 5m, thì bị lực lượng Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Thanh Phong đang tuần tra phát hiện, kiểm tra. Thấy vậy, Đ hô lên: “vất hàng đi, chạy đi”, mặc dù T không biết hàng gì, nhưng nghe Đ hô vậy T giật mình ném bao thuốc lá Thăng Long xuống vị trí cách chỗ Đ đứng khoảng 02m, rồi bỏ chạy về hướng Phủ Lý, còn Đ bị lực lượng Công an bắt giữ.

* Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm: thu giữ trên nền đường bê tông, cách vị trí Đ đứng khoảng 2m, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 02 túi nilon (01 túi nilon màu trắng hàn kín có mép dán viền màu đỏ đựng 05 viên nén màu trắng, 01 túi nilon màu trắng hàn kín có mép dán viền màu xanh bên trong đựng chất dạng tinh thể màu trắng), được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, được niêm phong ký hiệu QT02 và 01 xe mô tô biển kiểm soát 90B3-22....

Tiến hành khám xét nơi ở của Trần Văn Đ, Cơ quan điều tra không thu giữ gì.

Tại bản Kết luận giám định số 268/PC09-MT ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,493g (hai phảy bốn trăm chín mươi ba gam) loại: MDMA; mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,676g (không phẩy sáu trăm bảy mươi sáu gam) loại: Ketamine”.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 24/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm, kết luận: “giá trị của 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 90B3-22..., số khung RLHJA3917LY13..., số máy JA39E147..., màu sơn cam đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 28/12/2020 là 19.800.000 đồng (mười chín triệu tám trăm nghìn đồng)”.

Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKSTL ngày 16/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Trần Văn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà: đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật Hình sự - xử phạt Trần Văn Đ từ 39 đến 45 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các điều 297, 298 và 317 của Bộ luật Dân sự, Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng - tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105; giao chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B3-22... cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm phối hợp với Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV thu hồi nợ cho công ty này theo Hợp đồng thế chấp tài sản, trị giá xe mô tô còn lại sau khi thu hồi nợ cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Bị cáo Trần Văn Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án - bà Trần Thị Nh không yêu cầu gì về số tiền đã trả góp mua xe mô tô cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, Trần Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 01 giờ 50 phút ngày 28/12/2020, tại khu vực Dốc Bói thuộc địa phận thôn Ba Làng, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; lực lượng Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Thanh Phong phát hiện, bắt quả tang Trần Văn Đ có hành vi mua bán trái phép 2,493 gam ma túy loại MDMA và 0,676 gam ma túy loại Ketamine, với mục đích kiếm tiền lời.

[3] Hành vi mua bán trái phép nhiều chất ma túy của Trần Văn Đ là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, khối lượng ma túy các loại mà bị cáo mua bán là dưới 05 gam. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Trần Văn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, được chính quyền địa phương xác nhận, nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không có giá trị; nay cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105: quá trình điều tra xác định Đ đã sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc bán ma túy cho người tên Tuấn; nên cần tịch, thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90B3-22...: quá trình điều tra xác định đây là tài sản của Trần Văn Đ và là phương tiện Đ dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chiếc xe này là do Đ vay và trả góp. Ngày 19/8/2020, Đ ký Hợp đồng tín dụng số 20200819-7974357, Hợp đồng thế chấp tài sản số 20200819-7974357, thế chấp chiếc xe này để vay 18.217.500 đồng của Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV (sau đây viết tắt là Công ty Tài chính) và trả góp theo kỳ. Tính đến ngày 19/3/2021, Đ và bà Trần Thị Nh (mẹ đẻ Đ) đã trả góp được 6.782.000 đồng. Việc các bên ký các hợp đồng nêu trên là tự nguyện, hợp pháp; nên Công ty Tài chính được quyền đề nghị xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo quy định tại các điều 297, 298, 317 của Bộ luật Dân sự và Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Sau khi thế chấp tài sản, bị cáo đã sử dụng tài sản thế chấp làm phương tiện phạm tội, Công ty Tài chính hoàn toàn không biết việc này. Hiện tài sản thế chấp là tang vật của vụ án và đang bị tạm giữ theo quy định. Do vậy, cần giao chiếc xe mô tô trên cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm xử lý theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ cho Công ty Tài chính theo hợp đồng mà các bên đã ký kết. Nếu sau khi xử lý tài sản thu hồi nợ còn dư, thì số tiền còn dư đó tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[5] Về các vấn đề khác:

- Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ và người đưa ma túy cho Đ để bán: theo lời khai của Đ, Cơ quan Cảnh sát điều Công an huyện Thanh Liêm đã phối hợp với Công an xã Thanh Phong điều tra xác minh, nhưng không xác định được người có tên là C sinh năm 1996. Ngoài lời khai của Đ thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ nguồn gốc số ma túy cũng như người đã đưa ma túy cho Đ.

- Đối với hành vi của anh Nguyễn Văn T: quá trình điều tra xác định anh T cầm bao thuốc Đ đưa, anh T không kiểm tra bên trong, không biết bên trong chứa chất ma túy và không biết Đ rủ đi để bán ma túy; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Thanh Liêm không có căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự anh Nguyễn Văn T với vai trò đồng phạm, là đúng pháp luật.

- Đối với người tên Tuấn đã sử dụng số điện thoại di động 081901... gọi điện đến cho Đ ngày 28/12/2020 để hỏi mua ma túy: quá trình điều tra xác định số thuê bao trên đứng tên đăng ký là chị Nguyễn Thị Bích Ngọc - sinh năm 1999, trú tại thôn 1 Tâng, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Tuy nhiên, chị Ngọc xác định không sử dụng số thuê bao này và cũng không cho ai mượn giấy tờ cá nhân để đăng ký số thuê bao trên. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm không có căn cứ làm rõ đối tượng đã gọi điện mua ma túy của Đ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 297, 298 và 317 của Bộ luật Dân sự; Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

1. Tuyên bố: bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

+ Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 39 (ba mươi chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 28/12/2020.

2. Xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105. Giao chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave, biển kiểm soát 90B3-22... cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử lý để thu hồi nợ cho Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV theo Hợp đồng tín dụng số 20200819- 7974357 và Hợp đồng thế chấp tài sản số 20200819-7974357 ngày 19/8/2020 giữa Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên NHVNTV và Nguyễn Văn Đ. Nếu sau khi xử lý tài sản thu hồi nợ còn dư, thì số tiền còn dư đó tịch thu, nộp ngân sách nhà nước (tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/4/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: bị cáo Trần Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 40/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về