Bản án 40/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG , THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng , Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Bùi Quang T, sinh năm 1960 tại huyện Đ, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Cụm 6, xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Quang C và bà Nguyễn Thị T; có vợ và có 03 con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1991; tiền án, tiền sự: Không; danh bản, chỉ bản số 116 do Công an huyện Đan Phượng lập ngày 12/3/2021; bị bắt tạm giữ ngày 04/2/2021 đến ngày 07/2/2021 tại ngoại; tạm giam: Không; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Kim Dung - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện P, Thành phố Hà Nội; có mặt.

Anh Đinh Tiến H, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn C, xã P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

Ông Lê Đức L, sinh năm 1957; nơi cư trú: Thôn T, xã S, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Quách Duy T, sinh năm 1978; nơi cư trú: Cụm 8, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Quang T, sinh năm 1960 ở Cụm 6, xã H, huyện Đ, bán hàng bia tại số 9, ngõ 90 Phan Đình P, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Quá trình bán bia, T có bán số lô, số đề cho khách có nhu cầu.

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 03/2/2021, Nguyễn Văn T ở thôn T, xã T, huyện P, Thành phố Hà Nội đến mua số lô, số đề của T gồm số lô 14, 41, số đề 14, 41, 19, 91 với tổng số tiền là 345.000 đồng, T ghi các số lô, số đề trên vào bảng là tờ giấy A4 và nhận tiền của T thì bị Công an bắt quả tang. Thu giữ 01 tờ giấy A4 là bảng tổng hợp số lô, số đề ngày 03/2/2021 có chữ ký của T và số tiền 8.260.000 đồng.

Trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 17 giờ 45 phút cùng ngày, T còn bán cho Đinh Tiến H ở Đội 13, xã P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội gồm số lô A, B 69, 96 mỗi số 5 điểm x 22.500 đồng = 225.000 đồng; đề A 69, 96 x 5.000 đồng = 10.000 đồng; lô xiên 530, 330 x 20.000 đồng = 40.000 đồng; đề AB 03, 30 x 30.000 đồng = 120.000 đồng; tổng là 395.000 đồng. Bán cho Lê Đức L ở Thôn T, xã S, huyện Đ gồm số đề A 77, 86 x 5.000 đồng = 10.000 đồng; đề A đầu 9 x 30.000 đồng = 300.000 đồng; đề B 77 là 200.000 đồng, đề B 00 là 50.0000 đồng; đề B kép 00, 11, 22, 33, 44, 55, 66, 77, 88, 99 x 20.000 đồng = 200.000 đồng; đề B ba càng 077 là 100.000 đồng; đề B ba càng 277, 377, 677, 877, 977 x 30.000 đồng = 150.000 đồng; số lô B 86, 77 x 5 điểm = 10 điểm = 225.000 đồng; lô B xiên 2 (86, 07) là 20.000 đồng; tổng là 1.255.000 đồng. Ngoài ra, T còn ghi số lô, số đề cho một số người khác không rõ tên tuổi địa chỉ. Tổng số tiền T bán số lô, số đề cho khách ngày 03/2/2021 là 10.448.500 đồng. Sau khi ghi xong bảng số lô, số đề thì T giữ lại để so sánh với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc và tính toán trả tiền khách thắng vào ngày hôm sau rồi huỷ bảng ghi số lô, số đề.

Quá trình điều tra, Bùi Quang T khai ngày 03/2/2021, T đã bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn T, Đinh Tiến H, Lê Đức L và khoảng 04 người khác. Khi khách mua xong thì T tổng hợp vào bảng số lô, số đề cụ thể ngày 03/2/2021 là 10.448.500 đồng. Tuy nhiên, do T khuyến mại 10% vào số tiền đề cho khách mua nên số tiền T thu của khách ngày 03/2/2021 là 10.090.500 đồng. Thời điểm bắt quả tang, Công an huyện thu giữ số tiền khách mua số lô, số đề là 8.260.000 đồng, số tiền còn lại T đã chi tiêu cá nhân.

Bản cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 06 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội truy tố Bùi Quang T về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Bùi Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trong quá trình điều tra và nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cũng khai nhận do không có công việc làm, muốn kiếm thêm thu nhập nên đã phạm tội. Được sự động viên giúp đỡ của con cái, gia đình về vật chất và tinh thần, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ xử phạt bị cáo bằng hình phạt tiền.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do thiếu hiểu biết pháp luật, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là thương binh, là người có công với cách mạng, có ông nội là liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 35 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo bằng hình phạt tiền với mức thấp nhất mà điều luật qui định, thể hiện sự khoan hồng và tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa sai phạm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng , Thành phố Hà Nội tại phiên tòa trình bày luận tội giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo Bùi Quang T về tội Đánh bạc. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T số tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền thu giữ dùng vào việc đánh bạc là 8.260.000 đồng; truy nộp số tiền 1.830.500 đồng là tiền đánh bạc mà bị cáo đã sử dụng để sung vào ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đan Phượng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quang T đã thành khẩn khai nhận hành vi của mình. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Nhằm mục đích thu lợi bất chính nên khoảng từ 17 giờ đến 17 giờ 50 phút ngày 03/2/2021, tại nơi bán hàng của Bùi Quang T ở số 9, ngõ 90 Phan Đình Phùng, xã , huyện , Thành phố Hà Nội, bị cáo Bùi Quang T đã bán số lô, số đề cho Nguyễn Văn T, Đinh Tiến H, Lê Đức L và 04 người khác (không xác định được tên, địa chỉ) với tổng số tiền ghi là 10.448.500 đồng (số tiền thực tế thu được là 10.090.500 đồng) thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ 01 tờ giấy A4 là bảng tổng hợp số lô, số đề ngày 03/2/2021 và số tiền 8.260.000 đồng.

Bị cáo Bùi Quang T bán số lô, số đề cho nhiều người khác để thu lợi bất chính là có dấu hiệu của tổ chức đánh bạc, tuy nhiên tính chất hành vi đơn giản, qui mô vụ việc đánh bạc chưa lớn nên hành vi của bị cáo đủ các yếu tố cấu thành tội Đánh bạc. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng truy tố bị cáo về tội Đánh bạc theo quy định quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xét xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Hội đồng xét xử cũng xem xét, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qui định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bản thân bị cáo đã tham gia bộ đội tại biên giới phía Bắc, là thương binh hạng 4/4 thuộc đối tượng người có công với cách mạng, có ông nội là liệt sỹ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với hành vi của bị cáo, đáng lẽ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện và chịu sự quản lý, giám sát của chính quyền địa phương nơi cư trú, nhưng xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng nên căn cứ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 35 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt, thấy cũng đủ để giáo dục bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Đối với hành vi mua số lô, số đề của Nguyễn Văn T, Lê Đức L, Đinh Tiến H, do số tiền mua số lô, số đề của những người trên có giá trị dưới 5 triệu đồng, những người này đều chưa có tiền án và tiền sự về tội Đánh bạc nên chưa cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với những người này là đúng pháp luật. Cơ quan điều tra không xác định được một số người khác đã mua số lô, số đề của Bùi Quang T nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 tờ giấy A4 là bảng tổng hợp số lô, số đề ngày 03/2/2021 có chữ ký của Bùi Quang T, đây là tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Số tiền thực tế xác định bị cáo Bùi Quang T thu được từ việc bán số lô, số đề ngày 03/2/2021 là 10.090.500 đồng. Số tiền thu giữ được của bị cáo 8.260.000 đồng, đây là số tiền do bị cáo thu được từ hành vi bán số lô, số đề ngày 03/2/2021 nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Còn lại 1.830.500 đồng do bị cáo T đã sử dụng chi tiêu cá nhân nên buộc bị cáo nộp để sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, tuy nhiên theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo là thương binh, thuộc đối tượng người có công với cách mạng nên được miễn nộp tiền án phí.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Quang T số tiền là 21.000.000 đồng (Hai mươi mốt triệu đồng) về tội Đánh bạc.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền thu giữ của bị cáo Bùi Quang T là 8.260.000 đồng (Tám triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng - Số tiền đã được nộp vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 13/4/2021 của Kho bạc Nhà nước huyện , Thành phố Hà Nội).

Buộc bị cáo Bùi Quang T nộp số tiền 1.830.500 đồng (Một triệu tám trăm ba mươi nghìn năm trăm đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Quang T được miễn án phí nên không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về