Bản án 40/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội trộm cắp tài sản       

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN – TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXX-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với:

*Bị cáo: Lê Đức A, sinh năm 1987; tên gọi khác: Không; nơi cư trú: Tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn L và bà Bùi Thị Ng; vợ: Trần Thị T; con: 02 con: Lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2011 bị Công an huyện Duy Tiên (nay là Công an thị xã Duy Tiên) xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

* Bị hại: Ông Lê Xuân C, sinh năm 1969; địa chỉ: Tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; có mặt.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- ông Lê Văn L (tên gọi khác: Lê Xuân L), sinh năm 1965; có mặt.

- chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1974; vắng mặt.

- anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1971; vắng mặt.

- anh Bùi Đức Th, sinh năm 1972; vắng mặt.

Đều trú tại: Tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam.

- chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn Thượng V, xã Yên N, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

*Người chứng kiến: chị Trần Thị T, sinh năm 1993; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 03/01/2021, Lê Đức A được gia đình ông Lê Xuân C - SN 1969 ở tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T mời đến ăn cỗ đám cưới. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn cỗ xong, lợi dụng gia đình ông C bận chuẩn bị đi đón dâu, Lê Đức A một mình đi vào phòng cưới của gia đình ông C để trộm cắp tài sản. Khi vào trong buồng cưới, Đức A dùng tay giật cánh cửa tủ ra và phát hiện bên trong có một hòm gỗ hình trái tim có 02 chiếc phong bì và một số tiền mặt. Đức A cầm 02 chiếc phong bì này và toàn bộ số tiền mặt cho vào túi quần trước bên trái rồi đóng cửa tủ lại. Cùng lúc này, người nhà ông C phát hiện, yêu cầu Đức A trả lại tài sản đã trộm cắp. Tại đây, Đức A lấy từ trong túi quần ra 02 chiếc phong bì của khách đến mừng gia đình ông C, gồm: 01 phong bì ghi “cháu Huỳnh Thảo - Mang Thượng, mừng cho gia đình bác”; 01 phong bì ghi “Hai bác Thạnh Gấm mừng hạnh phúc hai cháu” và số tiền 1.420.000 đồng. Đức A đã trả lại 02 chiếc phong bì trên cho gia đình ông C và nói dối số tiền 1.420.000 là của mình, sau đó mọi người cho Đức A về. Đến khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/01/2021, Đức A cùng bố đẻ là ông Lê Văn L đến nhà ông C trả lại số tiền 1.330.000 đồng đã trộm cắp cho ông C. Ông C đã trình báo Cơ quan Công an giải quyết theo quy định.

Tang vật thu giữ: Số tiền 1.330.000 đồng; 01 chiếc phong bì dán kín ghi “Cháu Huỳnh Thảo - Mang Thượng mừng cho gia đình bác”, kiểm tra bên trong có số tiền 200.000 đồng; 01 chiếc phong bì dán kín ghi “Hai bác Thạnh Gấm mừng hạnh phúc hai cháu”, kiểm tra bên trong có số tiền 1.000.000 đồng do ông Lê Xuân C giao nộp và số tiền 90.000 đồng do bị cáo tự nguyện giao nộp.

Về trách nhiệm dân sự: Ông C có nguyện vọng xin nhận lại số tiền do bị cáo trộm cắp, đang được cơ quan công an thu giữ. Ngoài ra không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Ngoài ra bị cáo Đức A còn khai nhận: Sau khi trộm cắp tiền của gia đình ông C, Đức A đến nhà Bùi Đức Th - SN 1972 ở tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T chuộc lại đồng hồ đeo tay hết 300.000 đồng và mua 300.000 đồng ma túy sử dụng. Tuy nhiên anh Bùi Đức Th không thừa nhận sự việc trên, ngoài lời khai của Đức A thì không còn tài liệu nào khác chứng minh nên không có căn cứ để xác minh xử lý.

Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 05/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố bị cáo Lê Đức A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đức A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị hại xác nhận lời khai của bị cáo đã trình bày, xin nhận lại khoản tiền mà bị cáo chiếm đoạt và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong phần luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS đối với bị cáo. Xử phạt: Lê Đức A mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đưa ra quan điểm về hình phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự và án phí đối với bị cáo. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì.

Trong phần tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt và không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở đánh giá các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, của Điều tra viên và Kiểm sát viên thấy rằng: Việc điều tra, xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh tội phạm, ban hành các văn bản tố tụng đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 03/01/2021, tại gian buồng của gia đình ông Lê Xuân C - SN 1969 ở tổ dân phố Trại Quan Nh, phường Hòa M, thị xã Duy T, tỉnh Hà Nam, lợi dụng sơ hở trong khi gia đình ông C chuẩn bị đi đón dâu đám cưới, Lê Đức A đã thực hiện hành vi lén lút vào buồng gia đình ông C dùng tay cậy tủ để trộm số tiền 2.620.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đức A là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi đó của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra hành vi của bị cáo là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ nhận định trên, HĐXX nhận thấy: Mặc dù bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, HĐXX cần phải ấn định mức hình phạt phù hợp và cho bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo thành công dân tốt góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lê Đức A đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền đã chiếm hưởng. Bị hại là ông Lê Xuân C yêu cầu nhận lại số tiền do bị cáo khắc phục với tổng số tiền là 2.620.000 đồng và không có yêu cầu gì khác nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[5]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp, thu nhập, có con nhỏ nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với số tiền 2.620.000đ do Cơ quan Điều tra thu giữ được chuyển theo hồ sơ vụ án. Qua đấu tranh, HĐXX xác định đây là số tiền bị cáo đã trộm cắp của bị hại nên cần trả lại cho bị hại là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Đức A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Lê Đức A 07 (bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị hại là ông Lê Xuân C số tiền 2.620.000đ (hai triệu sáu trăm hai mươi nghìn đồng).

(Số tiền này đã được Công an thị xã Duy Tiên chuyển qua tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên bằng Ủy nhiệm chi số 42 ngày 12/4/2021).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội buộc bị cáo Lê Đức A phải nộp: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Báo cho bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội trộm cắp tài sản       

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về