Bản án 40/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 40/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 04 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/QĐST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 đối với:

Các bị cáo:

1. LÊ XUÂN H, sinh năm 1982. Nơi cư trú: tổ 02, phường ĐT, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 12/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Có bố là Lê Văn S và mẹ là Hồ Thị D. Có vợ là Đồng Thị Thu H và 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2014. Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 11/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. NGUYỄN VĂN D, sinh năm 1968. Nơi ĐKHKTT: khối QT, phường VP, quận Hà Đông, TP Hà Nội. Chỗ ở: số nhà 22, tổ 06, phường PĐ, quận NTL, TP Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 05/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Có bố là Nguyễn Văn P và mẹ là Chu Thị T. Có vợ là Nguyễn Thị H và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1989, con nhỏ nhất sinh năm 2020. Gia đình bị cáo có 07 anh em, bị cáo là con thứ bảy.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 11/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

3. NGUYỄN VĂN TH, sinh năm 1992. Nơi cư trú: TK 01, thị trấn MC, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 12/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Có mẹ là Nguyễn Thị D. Có vợ là Hoàng Thu V, sinh năm 1999 và 01 con sinh năm 2019. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 11/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

4. KHÀ VĂN L, sinh năm 1994. Nơi cư trú: TK 4, thị trấn MC, huyện MC, Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 09/12. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Có bố là Khà Văn L và mẹ là Hà Thị T. Có vợ là Ngô Thúy H và 01 con gái sinh năm 2017. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 11/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

5. TRẦN THỊ NGỌC Q, sinh năm 2000. Nơi ĐKHKTT: ấp GC, xã LH, thị xã GC, tỉnh Tiền Giang. Chỗ ở: Tổ 9, phường HN, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 05/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Có mẹ là Trần Thị Bích N. Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ 11/9/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng 1. Hà Mạnh C, tức C Tổng, sinh năm 1985. Nơi cư trú: tổ 5, phường TT, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

2.Ngô Ngọc L1, sinh năm 1969. Nơi cư trú: tổ 22B, phường ĐG, quận Long Biên, TP Hà Nội.

3. Nguyễn Thị L2, sinh năm 1972. Nơi cư trú: tổ 22B, phường ĐG, quận Long Biên, TP Hà Nội.

4. Phan Thị Y, sinh năm 2002. Nơi cư trú: tổ 09, phường HN, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

5. Phạm Tuấn D1, sinh năm 1984. Nơi cư trú: TK 1, thị trấn MC, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

6. Nhữ Thị Thu H1, sinh năm 1999. Nơi cư trú: xóm YH2, xã YM, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 10/09/2020, Lê Xuân H, Nguyễn Văn D (còn gọi là D Trọc), Nguyễn Văn Th, Ngô Ngọc L1, Nguyễn Thị L2, Hà Văn C, Vũ Thị Thu H, Trần Thị Ngọc Q, Phan Thị Y, Phan Tuấn D1 tổ chức ăn uống tại quán bia 87 trên đê Đà Giang. Sau khi ăn uống xong, H có nói với những người còn lại gồm: Nguyễn Văn D, L1, L2, C, Th, Q, Y, Phạm Tuấn D1 vào quán CAFÉ MUSIC thuộc Tổ 01, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, Hòa Bình để sử dụng ma túy tổng hợp (MDMA, ketamine) thì không có ai ý kiến gì và cùng di chuyển vào quán, còn C về nhà cất xe và vào sau. Khi vào đến quán, Q xin phép về phòng thay quần áo, các đối tượng còn lại lên tầng hai vào phòng bên phải (Hướng đi từ cầu thang lên). Khi vào phòng, mọi người đã ngồi ổn định, đèn phòng bật sáng, trong phòng chưa bật nhạc thì H có nói với mọi người là “anh em mình đi ít người thế ngày chỉ lấy 05 (năm) viên kẹo (MDMA) và nửa chỉ ke (ketamine) thôi”. Lúc này, Nguyễn Văn D, L1, L2, Th, Phạm Tuấn D1 không có ý kiến gì, H có gọi điện cho T (T Mấm) lấy 05 (năm) viên MDMA và nửa chỉ Ketamine. Sau khi H gọi điện thoại hỏi mua ma túy xong thì Nguyễn Văn D lấy trong ví ra đưa cho H 4.000.000đ (bốn triệu đồng), bảo H “cầm mà mua đồ” (nghĩa là trả tiền mua ma túy tổng hợp và chi cuộc vui hôm nay), nhưng H không cầm và có nói với Dũng là: “Anh cầm lấy đi khi nào Th toán thì em lấy sau”, thấy H nói vậy D1 đã cất số tiền này vào ví. Khoảng 15 phút sau thì có người đàn ông đi taxi đến cổng quán CAFÉ MUSIC và gọi H xuống lấy “Đồ”, tức là xuống lấy số ma túy mà H đặt mua (MDMA, Ketamine). H lấy ma túy nhưng chưa trả tiền và cầm lên phòng hát để cùng mọi người sử dụng. Lúc này, quán hát mất điện nên các đối tượng di chuyển sang quán Karaoke Minh Minh 3 thuộc xóm 7, xã Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình (nay là tổ 7, phường Quỳnh Lâm, thành phố Hòa Bình). Khi ra đến quán Karaoke Minh Minh 3, H dẫn mọi người lên phòng 401. Sau khi mọi người đã đến đầy đủ, H lấy ma túy tổng hợp ra, bẻ ½ viên MDMA đưa cho D Trọc và ½ viên đưa cho C Tổng, số ma túy còn lại H để trên mặt bàn, ai sử dụng thì lấy. Sau đó H sử dụng ¼ viên MDMA, Th và Phạm Tuấn D1 được H đưa cho mỗi người ¼ viên MDMA để sử dụng. Lúc này vợ L1 là Nguyễn Thị L2 về trước nghỉ. Phạm Tuấn D1 có gọi Nhữ Thị Thu H1 là nhân viên của quán lên phòng 401 để hát và uống bia cùng. Trong quá trình tổ chức sử dụng ma túy, C có ra ngoài hành lang để hút thuốc lào và nôn hết ra người nên H và Phạm Tuấn D1 đã đưa C về nhà thay quần áo. Tại Phòng 401, Th có nhắn tin và gọi điện cho Khà Văn L rủ sang chơi ma túy cùng. Sau đó, L bắt taxi sang quán Karaoke Minh Minh 3 và lên phòng 401 ngồi chơi cùng với mọi người người. H D1 đưa C về thay quần áo sau đó quay lại. L được H đưa ¼ viên kẹo (MDMA) để sử dụng. Sau khi sử dụng xong, đang ngồi nghe nhạc thì L được H đưa cho 01 (một) gói ketamine bảo đi xào Ketamine. L đi ra ngoài hành lang tầng 4 gọi nhân viên phục vụ quán là Bùi Minh D2 (sinh năm 2004, HKTT: xóm Luống, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, Hòa Bình) lấy đĩa và thẻ cạc. Khi L lấy được đĩa và thẻ cạc thì vào phòng bảo Q đi xào Ketamine và đưa cho Q 01 (một) gói Ketamine. Q cầm gói ketamine đi ra ngoài lấy đĩa sứ L đã gọi sẵn để trên bàn, sau đó vào phòng lấy thẻ cạc ATM màu xanh và khăn giấy rồi đi ra ngoài phòng vệ sinh cùng với L sào Ketamine. Trong lúc Q đang sào Ketamine thì L lấy tờ tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) của L ra quấn ồng hút để sử dụng Ketamine. Khi Q xào Ketamine xong thì đưa đĩa cho L cầm vào phòng đặt trên bàn, tiếp đó Q cầm đĩa Ketamine đi mời mọi người trong phòng sử dụng nhưng chỉ có Phạm Tuấn D1 sử dụng. Đến khoảng 02 giờ 15 phút này 11/9/2020 tổ công tác công an thành phố Hòa Bình phát hiện bắt quả tang hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 401. Thu giữ: 01 (một) đĩa sứ màu trắng, 02 (hai) thẻ ATM, 03 (ba) vỏ sim điện thoại, 01 (một) ống hút tự chế bằng tiền polime mệnh giá 20.000đ, 01 (một) gói nilon chứa chất bột màu trắng, các mảnh viên nén màu xám xanh. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải các đối tượng về trụ sở để làm việc và niêm phong toàn bộ vật chứng theo quy định. Đến khoảng 07 giờ 30 phút ngày 11/9/2020, Lê Xuân H đã đến cơ quan công an đầu thú.

Bản kết luận giám định số: 291/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 12/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột màu trắng trong gói nilon trong phong bì niêm phong gửi giám định có tổng khối lượng 0,54g (Không phẩy năm mươi bốn gam) là ma túy, loại Ketamine.

Các mảnh viên nén màu xám trong phong bì niêm phong gửi giám định có tổng khối lượng 0,14g (không phẩy mười bốn gam) là ma túy, loại MDMA”.

Bản kết luận giám định số: 318/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 09/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: “Trên bề mặt đĩa sứ màu trắng trong gói niêm phong ghi “VẬT CHỨNG THU GIỮ vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, ngày bắt 11/9/2020 tại phòng 401, quán Karaoke Minh Minh 3 thuộc xóm 7, xã Sủ Ngòi, thành phố Hòa Bình” gửi giám định có bám dính ma túy loại Ketamine.

Trên bề mặt 02 thẻ nhựa ký hiệu thẻ 1, thẻ 2 và trong lòng ống quấn bằng tờ tiền polime 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) trong phong bì niêm phong gửi giám định có bám dính chất ma túy, loại Ketamine”.

Quá trình điều tra, thu giữ được 04 (bốn) file video được trích xuất từ đầu thu tín hiệu nhãn hiệu KBVISON màu đen, ở quầy lễ tân tầng 01 quán karaoke Minh Minh 3.

Bản kết luận giám định số 7501/C09-P6 ngày 02/12/2020 của Viện khoa học kỹ thuật hình sự kết luận:

“- Không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong 04 (bốn) video gửi giám định Nội dung hội thoại trong các tệp video gửi giám định được chuyển hóa thành văn bản. Chi tiết được thể hiện trong 01 (một) bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định (gồm 04 trang giấy A4).

Hình ảnh các đối tượng trích xuất được từ các tệp video gửi giám định được thể hiện trong 01 phụ lục gồm 28 trang giấy khổ A4”.

Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 04/04/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hoà Bình truy tố Lê Xuân H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Th, Khà Văn L và Trần Thị Ngọc Q về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Lê Xuân H từ 48 đến 54 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 42 đến 48 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 30 đến 36 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Khà Văn L từ 30 đến 36 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc Q từ 30 đến 36 tháng tù.

Đều về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng: các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bản thân và xin được hưởng mức án thấp nhất để làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụn của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân TP Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị cáo đã thực hiện:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu giữ, nên có căn cứ xác định: Đêm ngày 10/9/2020, các bị cáo Lê Xuân H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Th, Khà Văn L, Trần Thị Ngọc Q có hành vi tổ chức cho mình và các đối tượng khác gồm: Hà Văn C, Phạm Tuấn D1, Ngô Ngọc L1, Phạm Thị Y sử dụng ma túy tổng hợp (MDMA và Ketamine) tại phòng 401 quán Karaoke Minh Minh 3 thuộc xóm 7, xã Sủ Ngòi (nay là tổ 7, phường Quỳnh Lâm), TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, đây còn là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, tụ tập, chế biến ma túy để sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do coi thường pháp luật, nể nang, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mình và những người khác nên vẫn cố tình thực hiện. Cáo trạng truy tố các bị cáo Lê Xuân H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Th, Khà Văn L, Trần Thị Ngọc Q về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cần áp dụng hình phạt tù tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

Đây là vụ án có nhiều đối tượng cùng nhau tham gia thực hiện tội phạm nhưng không có sự bàn bạc, phân công trách nhiệm, vai trò của từng người nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Các bị cáo và các đối tượng liên quan sử dụng nhiều tiếng lóng như “bay”, “chơi”, “đồ”, “phê”, “sào ke”, “kẹo” song đều hiểu thống nhất với nhau là liên quan đến việc sử dụng ma túy.

Trong vụ án này, bị cáo H là người khởi xướng, tập hợp mọi người, chuẩn bị địa điểm, trực tiếp liên hệ mua và cung cấp ma túy cho các đối tượng sử dụng nên giữ vai trò chính. Các bị cáo D, Th, L, Q khi được mời tới quán Karaoke để sử dụng ma túy đã tiếp thu ý chí, tham gia giúp sức cho việc thực hiện tội phạm. Cụ thể: Bị cáo D ủng hộ về mặt vật chất, chi tiền cho H để mua “đồ” (tức là mua ma túy); bị cáo Th là người liên lạc, rủ rê thêm Khà Văn L tới cùng sử dụng ma túy; bị cáo L Q, khi được mời đã tham gia giúp sức bằng việc chuẩn bị công cụ, phương tiện (đĩa sứ, thẻ cào, tiền polime làm ống hít), chế biến ma túy (“sào ke”, chia thành từng luống) và mời các đối tượng khác trong phòng sử dụng ma túy. Do đó, bị cáo H phải chịu trách nhiệm chính; tiếp đó đến bị cáo D; các bị cáo còn lại gồm Th, L, Q giữ vai trò thứ yếu, như nhau và phải chịu trách nhiệm hình sự thấp hơn bị cáo H và bị cáo D là phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo H và bị cáo L đã tích cực hợp tác, giúp đỡ cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm, Công an thành phố Hòa Bình và Công an huyện Lương Sơn có văn bản đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo H tự giác đầu thú, gia đình bị cáo có công với đất nước (vợ và bố mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương). Bị cáo D có hoàn cảnh gia đình khó khăn (là lao động chính trong gia đình có bố già yếu, con mắc bệnh hiểm nghèo) và có nhiều đóng góp trong các hoạt động từ thiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự, được áp dụng khi quyết định hình phạt với từng bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội, HĐXX xét thấy, các bị cáo H, D, Th, L, Q có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên có thể quyết định cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của hình phạt được áp dụng và trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có việc làm, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Về nguồn gốc ma túy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân H khai nhận mua của đối tượng Nguyễn Thị T (tức T Mấm), sinh năm 1990, trú tại số nhà 68, tổ 13, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên, do chưa xác định được hành vi mua bán ma túy cụ thể nên cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập xem xét trong vụ án này.

Đối với 01 gói ketamine có khối lượng 0,54g và các mảnh viên MDMA có khối lượng 0,14g thu giữ trong phòng 401 chưa xác định được của đối tượng nào nên cơ quan điều tra tách ra giải quyết bằng vụ án khác, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[6] Về hành vi của những cá nhân khác trong vụ án - Đối với Vũ Thị Kim M là chủ quán Karaoke Minh Minh 3, khi cho các bị cáo thuê phòng 401 đã không biết mục đích thuê để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Song, bà M có sơ hở trong quản lý địa điểm kinh doanh Karaoke của mình nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với bà M là phù hợp.

- Đối với người đàn ông lái xe taxi đưa ma túy cho H trước cửa quán CAFÉ MUSIC tối ngày 10/9/2020 nhưng chưa xác định được lai lịch, hành vi cụ thể nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

- Đối với Vũ Thị Thu H là người đặt phòng hát cho các đối tượng nhưng không biết việc tổ chức sử dụng chất ma túy nên cơ quan điều tra không đề cập giải quyết.

- Đối với Bùi Minh D2 là nhân viên của quán Karaoke Minh Minh 3, khi cung cấp đĩa sứ và thẻ cạc theo yêu cầu của bị cáo L nhưng không biết việc L và các đối tượng khác dùng để sử dụng ma túy nên không xem xét trách nhiệm.

- Đối với Ngô Ngọc L1, Phạm Tuấn D1, Phan Thị Y, Hà Mạnh C là các đối tượng có tham gia sử dụng ma túy tại phòng 401 vào đêm ngày 10/9/2020 nhưng không liên quan đến việc các bị cáo trong vụ án tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

- Đối với Nhữ Thị Thu H1, quá trình điều tra xác định Hà không liên quan đến việc tổ chức và không sử dụng ma túy nên cơ quan điều tra không đề cập giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Số ma túy hoàn lại sau giám định chứa trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi số 291/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 12/9/2020 chưa xác định được là ma túy của đối tượng nào, cơ quan điều tra tiếp tục lưu giữ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

- 01 tờ tiền polime mệnh giá 20.000đ, 02 thẻ ATM và 03 vỏ sim được các đối tượng dùng làm công cụ chế biến và sử dụng ma túy, có bám dính ma túy chứa trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi số 318/KLGĐ-CAT-PC-09 ngày 02/10/2020, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 đĩa sứ được sử dụng để “sào Ketamine” chứa trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi “Tang vật còn lại sau giám định”, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 03 cốc thủy tinh đã thu giữ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 USB nhãn hiệu Kingston có các tệp tin hoàn lại sau giám định chứa trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi số 7501/C09-P6 ngày 15/01/2021 là vật chứng được lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 phong bì niêm phong số tiền thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D gồm 10 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đ, tổng là 5.000.000đ và 10 tờ tiền đô la Mỹ mệnh giá 100 đô la, tổng là 1.000 đô la Mỹ, HĐXX xác định số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của bị cáo Lê Xuân H và Nguyễn Văn Th, HĐXX xét thấy bị cáo H và bị cáo Th đã sử dụng chiếc điện thoại trên để liên lạc mua ma túy, gọi người tới sử dụng ma túy, là phương tiện phạm tội, vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D và Trần Thị Ngọc Q, HĐXX xét thấy vật chứng này không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

[8]. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Lê Xuân H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Th, Khà Văn L, Trần Thị Ngọc Q phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

1.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lê Xuân H 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.

1.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn D 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.

1.3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn Th 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.

1.4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Khà Văn L 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.

1.5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trần Thị Ngọc Q 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 11/9/2020.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng hoàn lại sau giám định chứa trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi số 318/KLGĐ-CAT-PC-09 ngày 02/10/2020.

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng hoàn lại sau giám định trong 01 phong bì niêm phong vật chứng ghi “Tang vật còn lại sau giám định”.

- Tịch thu tiêu hủy các tang vật trong 01 phong bì niêm phong ghi tang vật trong vụ: Tổ chức sử dụng trái phép ma túy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max màu đen thu giữ của bị cáo Lê Xuân H.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Th.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng), 1.000 (Một nghìn) đô la Mỹ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu Gold cùng 01 sim điện thoại Viettel bên trong.

- Trả lại cho bị cáo Trần Thị Ngọc Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max màu Gold cùng 01 sim điện thoại Viettel bên trong.

Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình có đặc điểm cụ thể như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng số 63/BB ngày 08/4/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình.

3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo Lê Xuân H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Th, Khà Văn L, Trần Thị Ngọc Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

Số hiệu:40/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về