Bản án 40/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

 BẢN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03/6/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị M; Sinh năm: 1995 HKTT: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ hiện nay: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2.Bị đơn: Anh Trương Văn T; Sinh năm: 1988 HKTT và địa chỉ hiện nay: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 23/02/2020 và bản tự khai ngày 01/3/2021, nguyên đơn chị Bùi Thị M trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trương Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/9/2013 tại Ủy ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã T huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do anh T không chịu khó làm ăn để chăm lo cho gia đình mà thường xuyên say rượu và chửi bới, đánh đập chị. Vì con, chị đã cố gắng chịu đựng nhưng anh T không thay đổi tính nết. Thời gian kéo dài khiến cho chị cảm thấy vô cùng mệt mỏi và chán nản. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 3 năm 2018 đến nay và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Trương Thị Bảo T, sinh ngày 07/02/2012 và Trương Công T, sinh ngày 16/7/2014. Ly hôn, chị M yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 10/6/2021, chị M thay đổi yêu cầu về vấn đề nuôi con chung. Chị đề nghị được giao cháu T cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Tại bản tự khai ngày 24/3/2021, bị đơn anh Trương Văn T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Bùi Thị M kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/9/2013 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới, tình cảm vợ chồng hòa thuận bình thường, đôi khi trong cuộc sống cũng có những mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ mà vợ chồng nào cũng gặp phải. Chị M không thông cảm mà đã tự ý bỏ nhà ra đi, anh đã nhiều lần động viên chị M quay về nhưng chị M nhất quyết không về. Nay chị M làm đơn xin ly hôn với anh, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nên đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng được đoàn tụ.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Vợ chồng có hai con chung là cháu Trương Thị Bảo T, sinh ngày 07/02/2012 và Trương Công T, sinh ngày 16/7/2014. Nếu chị M nhất quyết yêu cầu ly hôn với anh, anh đồng ý giao cả hai con cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M.

Về tài sản: Anh Thao không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bổ sung ngày 16/6/2021, anh T xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị M. Về con chung, anh yêu cầu được nuôi cháu T và giao cháu T cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị M được ly hôn anh Trương Văn T; Về con chung: Giao cháu Trương Thị Bảo T, sinh ngày 07/02/2012 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Công T, sinh ngày 16/7/2014, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết. [2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh T không có mặt nên tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt anh T và đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh T theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh T đã được thông báo hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa, chị M và anh T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị M và anh T.

[5]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị M và anh Trương Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30/9/2013 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Sau khi kết hôn, vợ chồng hoà thuận đến năm 2018 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên cãi cọ, cuộc sống không hạnh phúc. Chị M đã về nhà bố mẹ đẻ từ năm 2018 đến nay và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Nay cả chị M và anh T đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Bùi Thị M được ly hôn anh Trương Văn T. [6]. Về con chung: Vợ chồng có hai con chung. Ly hôn, cả chị M và anh T đều yêu cầu được giao cháu T cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu này của chị M và anh T, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[7]. Về tài sản: Chị M và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự ; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị M và anh Trương Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Thị Bảo T, sinh ngày 07/02/2012 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trương Công T, sinh ngày 16/7/2014. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Chị M và anh T có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị M đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2018/0003013, ngày 26/02/2021. Chị M đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Bùi Thị M và anh Trương Văn T. Chị M và anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 40/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về