Bản án 40/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lữ Anh T; sinh ngày 29/7/1975, tại tỉnh B.

Hộ khẩu thường trú và nơi ở trước khi phạm tội: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đăk Lăk; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Con ông Lữ Xuân T (đã chết) và bà Đỗ Thị H (đã chết); Bị cáo có vợ là Nguyễn Minh N và có 02 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2000.

Tiền án: Tại bản án số 18/2018/HSST ngày 09/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ xử phạt 02 năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian thử thách 04 năm kể từ ngày 09/5/2018.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2020 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

- Ông Đàm Minh H, sinh năm 1990 - (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn E, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Bà Nguyễn Minh N, sinh năm 1978 - (Có mặt). Địa chỉ: Thôn Tân T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Ông Y D Ksơr, sinh năm 1962 - (Có mặt).

Địa chỉ: Buôn Đ, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

- Ông Lữ Anh T, sinh năm 2000 - (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

+ Người làm chứng: Ông Đinh Văn C, sinh năm 1964 - (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 13/4/2020, Lữ Anh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47 F4 - 8259 chở khoảng 100 kg tiêu của nhà mình đi bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Trên đường đi Lữ Anh T gặp ông Đàm Minh H và rủ ông H đi chơi cùng. Sau khi bán tiêu xong, Lữ Anh T chở ông Đàm Minh H đi ra Km 72, quốc lộ 14 thuộc huyện E, tỉnh Đắk Lắk để mua ma túy sử dụng, trên đường đi Lữ Anh T không nói với ông Đàm Minh H là mình đi mua ma túy.

Lữ Anh T chở ông Đàm Minh H đến quán nước gần chợ 72 thuộc địa phận xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk thì dừng lại. T nói với ông H ngồi đợi ở trong quán nước, tiếp đến T đi ra ngoài gặp một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch rồi nhờ người này đi mua ma túy giúp T. Lữ Anh T đưa cho người đàn ông này 1.500.000 đồng, người này đi khoảng 20 phút thì quay lại đưa cho Tuấn 03 gói ma túy. Lữ Anh T nhận ma túy vì sợ phát hiện nên T cất 01 gói vào giữa lớp xốp và lớp nhựa của mũ bảo hiểm rồi đội lên đầu, còn 02 gói Tuấn bỏ vào trong túi áo khoác đang mặc rồi điều khiển xe chở ông Đàm Minh H đi về. Lữ Anh T và ông Đàm Minh H đi về đến thôn H, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì bị Công an xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang. Công an xã E thu giữ trong mũ bảo hiểm của Lữ Anh T đang đội trên đầu 01 gói nylon là vỏ bao cà phê hòa tan bên trong có gói giấy bạc màu vàng chứa chất rắn màu trắng, thu giữ trong túi áo khoác bên trái của Lữ Anh T đang mặc 02 gói giấy bạc bên trong chứa chất rắn màu trắng, T khai nhận tất cả là ma túy T mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 gói nylon là vỏ bao cà phê hòa tan bên trong chứa 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột rắn màu trắng; 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột rắn màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong có sim Viettel số 0978742393; 01 xe mô tô hiệu Dream II màu nâu, biển kiểm soát 47 F4-8259, số máy C100ME:0406477, số khung CM100M: 0406477 và số tiền 1.526.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 317/GĐMT-PC09 ngày 17/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 03 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,3006 gam, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Lữ Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Lữ Anh T khai nhận về hành vi của mình phù hợp như nội dung kết luận điều tra và bản cáo trạng đã truy tố bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lữ Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lữ Anh T từ 02 năm đến 03 năm tù.

Đề nghị tổng hợp hình phạt 02 năm tù đối với bị cáo tại bản án số 18/2018/HSST ngày 09/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 04 năm tù đến 05 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu huỷ 0,2313 gam Heroine (Hoàn lại sau giám định) cùng toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu và 03 mẫu giấy bạc màu vàng có kích thước (3x7) cm.

Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, bên trong có sim Viettel số 0978742393 và số tiền 1.526.000 đồng cho bị cáo và bà Nguyễn Minh N là các tài sản không liên quan đến việc phạm tội.

Đối với xe mô tô hiệu Dream II màu nâu, biển kiểm soát 47 F4-8259 mà bị cáo dùng vào việc phạm tội là xe của ông Lữ Anh T mua của người khác nhưng chưa là thủ tục sang tên, đổi chủ, hiện nay ông T không có mặt tại địa phương nên chưa xác minh làm rõ. Đề nghị Tòa án chấp nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng đã tách ra để tiếp tục xác minh xử lý sau.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Xét lời khai nhận của bị cáo Lữ Anh T tại phiên tòa hôm nay về cơ bản là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Xét hành vi của bị cáo Lữ Anh T vào ngày 13/4/2020 đã mua của một đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch 1.500.000 đồng ma túy, có khối lượng 0,3006 gam về để sử dụng, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy trên người của mình thì bị Công an huyện Krông Năng bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Lữ Anh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heronie, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine; MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Hành vi phạm tội do bị cáo Lữ Anh T thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Chất ma túy gây ra nhiều tác hại đối với con người và cộng đồng, làm băng hoại đạo đức, suy kiệt giống nòi. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện bản chất coi thường pháp luật, không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách án treo. Do vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra và cần tổng hợp hình phạt của bản án trước đối với bị cáo.

4 Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi của mình. Bị cáo có mẹ đẻ là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba. Vì vậy, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

5 Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, phạm tội mới do hành vi cố ý trong thời gian thử thách án treo nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

6 Với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử xét thất cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[7 Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với việc giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

[8 Về xử lý vật chứng: Đối với 0,2313 gam Heroine (Mẫu vật hoàn lại sau giám định) cùng toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu và 03 mẫu giấy bạc màu vàng có kích thước (3x7) cm. Đây là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong có sim Viettel số 0978742393. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 1.526.000 đồng. Đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo và bà Nguyễn Minh N, không liên quan đến việc phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo và bà Nguyễn Minh N.

Đối với xe mô tô hiệu Dream II màu nâu, biển kiểm soát 47 F4-8259 đã qua sử dụng. Đây là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội. Tuy nhiên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng chưa xác minh được ai là chủ sở hữu hợp pháp. Hội đồng xét xử chấp nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Năng đã tách ra để tiếp tục xác minh xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo năm 2020, có đơn xin miễn án phí theo quy định của chính phủ được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

[10 Các nội dung khác: Trong vụ án này, có đối tượng đã bán Heroine cho bị cáo Lữ Anh T nhưng không rõ nhân thân, lai lịch. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đối với ông Đàm Minh H là người đi cùng bị cáo Lữ Anh T, H không biết bị cáo Lữ Anh T đi mua ma túy sử dụng, không biết bị cáo Lữ Anh T tàng trữ trái phép chất ma túy nên. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý về hình sự là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lữ Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lữ Anh T 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo tại bản án số 18/2018/HSST ngày 09/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ. Buộc bị cáo Lữ Anh T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm tù.

Bị cáo Lữ Anh T được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 06/02/2018 đến ngày 09/02/2018 tại bản án số 18/2018/HSST ngày 09/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 13/4/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu huỷ 0,2313 gam Heroine (Mẫu vật hoàn lại sau giám định) được đựng trong phong bì M1, phong bì M2 và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu, được niêm phong có các chữ ký ghi tên Đỗ Thị D, Lê Khắc N và đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Tịch thu, tiêu hủy 03 mẫu giấy bạc màu vàng có kích thước (3x7) cm.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong có thẻ sim thuê bao hãng Viettel số 0978742393 cho bị cáo Lữ Anh T và số tiền 1.526.000 đồng cho bị cáo Lữ Anh T và bà Nguyễn Minh N.

(Đặc điểm, số lượng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lữ Anh T.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về