Bản án 40/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 08/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 08 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2020/TLST-HS ngày 08/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 26/5/2020 đối với bị cáo:

Lê Duy B, sinh ngày 01/02/1969 tại huyện T, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:

7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Duy S (sinh năm 1930) và bà Bùi Thị A (đã chết); Có vợ là Lê Thị X (sinh năm 1980); Bị cáo có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2011); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 101/2012/HSST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 03 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản" và được trả tự do tại phiên tòa, ngày 25/12/2012 nộp xong án phí; Bản án số 15/2014/HSST ngày 26/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản", đến 21/9/2014 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương, ngày 15/5/2014 bị cáo đã nộp xong án phí; Bị tạm giữ từ ngày 13/02/2020 đến ngày 16/02/2020 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Thái Thụy. (Có mặt) - Người chứng kiến:

+ Ông Vũ Quang R, sinh năm 1957; Địa chỉ: Thôn N, xã R, huyện T, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt)

+ Ông Mai Đăng T, sinh năm 1966; Địa chỉ: Thôn P, xã R, huyện T, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 12/02/2020, do mắc nghiện ma túy nên Lê Duy B đã đi nhờ xe máy của một người đàn ông không biết tên, tuổi địa chỉ từ thôn Tam Đồng, xã Thụy Hải sang thôn Tri Chỉ Bồ, xã Thụy Trường rồi xuống đi bộ với mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khi đi B không nói với người đi nhờ xe mục đích đi mua ma túy để sử dụng. Sau khi mua xong B cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ về nhà, khi B đang đi bộ tại thôn Tri Chỉ Bồ, xã Thụy Trường, thấy B có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật nên bị lực lượng tuần tra Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền phối hợp cùng Phòng phòng chống ma túy và tội phạm bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ tuần tra yêu cầu dừng lại kiểm tra. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến là ông Vũ Quang R và ông Mai Đăng T, lực lượng chức năng đã tiến hành kiểm tra người B và thu giữ 01 gói bằng giấy màu trắng, mở ra bên trong có chứa chất bột màu trắng đục dạng cục, B khai đó là ma túy Heroine vừa mua với giá 100.000đ để sử dụng cho bản thân. Lực lượng chức năng đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 01 gói ma túy (niêm phong Mẫu số A1) đưa đi giám định, ngoài ra không phát hiện thu giữ đồ vật gì khác. Cùng ngày Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của B nhưng không thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Kết luận giám định số 54/KLGĐ-PC09 ngày 13/02/2020 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu số A1 là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1919gam (Không phẩy một nghìn chín trăm mười chín gam). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSTT ngày 07/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Lê Duy B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Duy B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 13/02/2020, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,1584gam Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 54/KLGĐ của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Duy B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền lập ngày 12/02/2020; Biên bản khám xét ngày 12/02/2020; Các biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu lập ngày 12/02/2020; Kết luận giám định số 54/KLGĐ-PC09 ngày 13/02/2020của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến ông Vũ Quang R và ông Mai Đăng T và các chứng cứ nêu trên. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 12/02/2020, bị cáo Lê Duy B có hành vi tàng trữ 0,1919gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân đã bị lực lượng tuần tra Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền phối hợp cùng Phòng phòng chống ma túy và tội phạm bộ đội biên phòng tỉnh Thái Bình bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Đánh giá tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy của nhà nước. Ma túy hiện nay đã trở thành vấn nạn nhức nhối cho toàn xã hội, bản thân người sử dụng sẽ bị hủy hoại về sức khỏe, tinh thần bị rối loạn, giảm khả năng lao động, học tập, nhân cách bị tha hóa. Tệ nạn ma túy còn là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người trưởng thành, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được tác hại rất lớn của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp mua về và cất giữ trong người để sử dụng cho bản thân với lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự [5] Từ những phân tích, nhận định về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử nhiều lần, hiểu được sự trừng phạt của pháp luật nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà còn tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh, xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[6] Bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng, không có mục đích bán kiếm lời. Bản thân bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 0,1584gam Heroine hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 54/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: B khai là mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội và có quyền kháng cáo theo quy định tại điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Duy B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Duy B 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 13/02/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1584 gam Heroine hoàn trả sau giám định và toàn bộ bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 54/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Các tài sản đồ vật trên có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 08/5/2020).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lê Duy B không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo Lê Duy B có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 08/6/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về