Bản án 40/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2020/TLST-HS ngày 16/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2020/QĐXXST-HS, ngày 24/4/2020 đối các bị cáo:

1. Hà Việt H1 (tên gọi khác: Không), sinh ngày 27/7/1994 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Q và bà Hoàng Thị T; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự; chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

2. Hà Văn H2 (tên gọi khác: Không), sinh ngày 26/12/1994 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn H và bà Nông Thị S; chưa có vợ, con; tiền án: Có 01 tiền án tại Bản án số 58/2018/HS- ST ngày 15/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 12 (mười hai) tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã thi hành xong, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; nhân thân: Đã bị xử lý hình sự; chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nông Thị S, sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Mạnh L, sinh năm 1988. Vắng mặt. Anh Lương Văn H, sinh năm 1997. Vắng mặt. Anh Phạm Văn H, sinh năm 1974. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 30 phút ngày 31/12/2019, Tổ công tác Công an huyện Cao Lộc phối hợp cùng Công an xã Cao Lâu, Đồn Biên phòng Ba Sơn làm nhiệm vụ tại thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, phát hiện tại nhà của Hà Việt H1, sinh năm 1994 có một số đối tượng nghiện ma túy ra vào có nhiều biểu hiện nghi vấn phạm tội. Tổ công tác tiến hành kiểm tra lúc này trong phòng của H1 còn có Hà Văn H2, sinh năm 1994, cùng trú tại: Thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tại thời điểm kiểm tra Hà Việt H1 tự giác lấy từ trong chiếc gối bị can đang để trên giường ra giao nộp cho tổ công tác 25 gói giấy nhỏ bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng và khai nhận toàn bộ các gói trên là ma túy Heroine do H1 mua về để sử dụng và bán cho những người nghiện ma túy khác. Hà Văn H2 cũng tự giác lấy từ trong túi áo khoác của mình ra 04 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai các gói giao nộp là chất ma túy Heroine do Hà Việt H1 trả công cho H2 vì đã cùng đi mua ma túy.

Tổ công tác đã đưa các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 25 (hai mươi lăm) gói giấy có dòng kẻ bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng thu giữ của Hà Việt H1; 04 (bốn) gói giấy có dòng kẻ bên trong các gói đều chứa chất bột màu trắng thu giữ của Hà Văn H2; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu vàng đen, BKS 12Z1 - 04789 đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen xanh đã qua sử dụng, số IMEL 864347048312292, đã qua sử dụng;

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã ra lệnh bắt và khám xét khẩn cấp nơi ở của Hà Việt H1, quá trình khám xét thu giữ: 96 (chín mươi sáu) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine; 01 (một) quyển vở bên trong có những trang giấy màu trắng có dòng kẻ; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hà Việt H1; 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu trắng đã qua sử dụng, số IMEL 35719503911365, đã qua sử dụng; số tiền 5.500.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tại Cơ quan điều tra, các bị can khai nhận: Bản thân Hà Việt H1 nghiện ma túy từ năm 2018, để có tiền mua ma túy về sử dụng từ tháng 3/2019 H1 đã đi mua ma túy sau đó bán lại kiếm lời. Thời gian đầu H1 thường đến khu vực chợ Bờ Sông, thành phố Lạng Sơn để mua ma túy về bán, sau đó qua những người nghiện ma túy H1 thường mua ma túy với một người phụ nữ (khoảng 35 tuổi, cao khoảng 160cm, dáng người béo, ở khu vực đường Tô Thị, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể). Mỗi lần mua ma túy H1 dùng chiếc điện thoại SAMSUNG màu trắng gọi cho người phụ nữ trên để hỏi mua ma túy, H1 không lưu số điện thoại và không nhớ số điện thoại của người này, chỉ nhớ có số đuôi là 283. Khi đi mua ma túy H1 thường rủ Hà Văn H2 (H2 là anh họ của H1) cùng đi bằng xe máy 12Z1-04789 của Hà Văn H2. H1 khai nhận đã nhiều lần đi mua ma túy về bán cho những người nghiện ma túy tuy nhiên chỉ nhớ ba lần gần nhất là:

Ngày 27/12/2019 H1 cùng Hà Văn H2 đi ra khu vực đường Tô Thị, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn gặp người phụ nữ nói trên mua một gói ma túy với giá 3.700.000 đồng. Sau đó H1 đem về chia thành 120 gói nhỏ đã bán cho các con nghiện và cùng H2 sử dụng hết.

Ngày 29/12/2019 H 1cùng H2 tiếp tục ra thành phố Lạng Sơn gặp người phụ nữ vừa nêu trên và mua một gói ma túy với giá 4.400.000 đồng. Lần này H1 đứng đợi ở đầu đường Tô Thị, H2 trực tiếp cầm tiền của H1 để đi đến khu vực đã hẹn lấy ma túy. Khi đến một ngõ nhỏ trên đường Tô Thị, H2 không gặp người phụ nữ nói trên mà có một người đàn ông đi xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH màu trắng, không rõ biển số (khoảng 30 tuổi, cao khoảng 170cm, dáng người gầy, không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) giao hàng cho H2. Sau đó H2 cầm lấy gói ma túy vừa mua được về cho H1. H1 đã đem gói ma túy này về chia thành 120 gói nhỏ ma túy. Ngày 30/12/2019 H1 đã bán cho Vy Đức T, sinh năm 1993, trú tại: Thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, cho H2 04 gói, cất trong ngăn bàn tại phòng ngủ 96 gói, cất trong gối tại phòng ngủ 05 gói, còn 14 gói H1 đã sử dụng hết.

Cũng trong ngày 30/12/2019, H1 rủ H2 ra thành phố Lạng Sơn để mua quần áo sau đó H1 để H2 ở khu vực chợ Giếng Vuông, thành phố Lạng Sơn rồi một mình tiếp tục ra gặp người phụ nữ trên mua thêm 1.000.000 đồng được một gói ma túy. Sau đó H1 đem về chia thành 27 gói nhỏ ma túy, bản thân đã sử dụng hết 02 gói nhỏ ma túy và cất 20 gói ma túy trong gối cùng với 05 gói trước đó bán 05 gói ma túy cho những người nghiện khác, gồm: Bán cho Vy Văn C, sinh năm 2000, trú tại: Thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn 02 gói với giá 200.000 đồng;

Bán cho Lương Văn H, sinh năm 1997, trú tại: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn 02 gói với giá 200.000 đồng; Bán cho Phạm Văn H, sinh năm 1974, trú tại: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn 01 gói với giá 100.000 đồng. Đến khoảng 13 giờ 30 ngày 31/12/2019 H1 cùng H2 đang ở trong nhà thì có lực lượng Công an đến kiểm tra và bắt giữ như đã nêu trên.

Quá trình điều tra Hà Văn H2 cũng khai nhận: H2 được cùng H1 đi mua ma túy về bán khoảng 3-4 lần, mỗi lần đi đều sử dụng xe mô tô của H2, mỗi lần mua từ 2.200.000 đến 4.400.000 đồng. Quá trình Hà Việt H1 đi mua ma túy về bán, chia nhỏ ma túy H2 đều biết và đã có lần cùng tham gia mua bán. Bản thân H2 đã được bán hộ ma túy cho H1 02 lần nhưng không rõ tên, tuổi của những người nghiện ma túy này và được H1 trả công bằng việc cho ma túy để H2 sử dụng. Số ma túy H2 tự giác giao nộp khi bị bắt quả tang là do H1 cho H2 ngày 30/12/2019 do H2 đi lấy ma túy hộ H1, H2 cất đi để sử dụng dần nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện và bắt giữ.

Đi với Lương Văn H, Phạm Văn H cùng thừa nhận được nhiều lần mua ma túy với Hà Việt H1, lần gần nhất là ngày 31/12/2019, lời khai của các đối tượng phù hợp với lời khai của bị can.

Ti bản Kết luận giám định số 48/KL- PC09 ngày 02/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Phong bì ghi chữ “quả tang Hà Việt H1” bên trong có 25 gói giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,519 gam;

- Phong bì ghi chữ “Khám xét khẩn cấp Hà Việt H1” bên trong có 96 gói giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 1,941 gam.

- Phong bì ghi chữ “quả tang Hà Văn H2” bên trong có 04 gói giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,078 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận toàn bộ số tiền 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng) trong gói niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.

Ti bản Cáo trạng số 45/CT-VKS, ngày 16/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, các bị cáo đều thừa nhận nội dung bản cáo trạng đã nêu đúng, đầy đủ hành vi phạm tội. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tuy nhiên, do các bị cáo đều nghiện ma túy nên đã có hành vi sai trái với pháp luật.

Ti phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Việt H1; áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Văn H2; xử phạt bị cáo Hà Việt H1 và Hà Văn H2 mỗi bị cáo với mức án từ 07 (bẩy) năm, 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm, 06 (sáu) tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung, đề nghị không áp dụng đối với bị cáo Hà Văn H2, đề nghị phạt tiền đối với bị cáo Hà Việt H1 từ 5.000.000đồng đến 10.000.000đồng. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 cùng 01 lọ nhựa màu trắng có dán mác giấy màu xanh và 01 quyển vở bên trong có những trang giấy màu trắng có dòng kẻ. Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu trắng, số IMEL 35719503911365 đã qua sử dụng của bị cáo Hà Việt H1. Trả lại cho bị cáo Hà Việt H1 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen xanh, số IMEL 864347048312292, đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Hà Việt H1 và số tiền 5.500.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho bà Nông Thị S 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu vàng nâu, BKS 12Z1 - 04789 đã qua sử dụng.

Áp dụng biện pháp tư pháp: Truy thu đối với bị cáo Hà Việt H1 số tiền 600.000 đồng do bị cáo bán ma túy mà có.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận.

Khi nói lời nói sau cùng, các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 31/12/2019; phù hợp với bản Kết luận giám định số 48/KL-PC09 ngày 02/01/2020 và bản Kết luận giám định số 50/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hà Việt H1 mua ma túy về bán nhiều lần cho các đối tượng nghiện là Vy Đức T, Vy Văn C, Lương Văn H, Phạm Văn H. Bị cáo Hà Văn H2 sử dụng xe máy đưa H1 đi mua ma túy; được đưa ma túy cho những người nghiện ma túy khác giúp H1 và được H1 trả công bằng việc cho ma túy để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều đủ tuổi trưởng thành, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy các bị cáo đã phạm tội. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo như sau:

[3] Trong vụ án này, bị cáo Hà Việt H1 và Hà Văn H2 đồng phạm với nhau. Bị cáo Hà Việt H1 giữ vai trò chính trong vụ án, bị cáo là người bỏ tiền để đi mua ma túy, bán trái phép ma túy nhiều lần và cho nhiều người để kiếm lời. Bị cáo Hà Văn H2 giữ vai trò thứ yếu, H2 đã nhiều lần dùng xe máy của mình cùng bị cáo H1 đi mua ma túy, có lần đã cầm tiền trực tiếp để mua ma túy hộ H1, đưa ma túy cho những người nghiện ma túy giúp H1 và được H1 trả công bằng việc cho ma túy để sử dụng.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hà Việt H1 không có tình tiết tăng nặng về nhân thân. Bị cáo Hà Văn H2 có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, đây là tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cả 02 bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do vậy, cả 02 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Cả 02 bị cáo đều là người nghiện ma túy. Bị cáo Hà Văn H2 có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích. Do vậy, xác định cả 02 bị cáo đều là người có nhân thân xấu.

[7] Đối với bị cáo Hà Việt H1 có hành vi mua ma túy nhiều lần về bán cho từ 02 người trở lên là bị cáo giữ vai trò chính. Bị cáo Hà Văn H2 tuy không bỏ tiền để mua ma túy nhưng đã được cầm tiền trực tiếp đi mua ma túy hộ H1, đưa ma túy cho những người nghiện ma túy giúp H1 và được H1 trả công bằng việc cho ma túy để sử dụng, vai trò thấp hơn bị cáo H1 nhưng đã bị kết án về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích mà vẫn tái phạm, nên xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian ngang nhau để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm. Tuy nhiên, tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội nên xét thấy cần giảm nhẹ phần nào hình phạt để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 251 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Xét thấy bị cáo Hà Việt H1 có tiền để đảm bảo thi hành án nên cần xử phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Việt H1 số tiền 5.000.000đồng (năm triệu đồng). Bị cáo Hà Văn H2 không có tài sản đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn H2.

[9] Về vật chứng: Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo Hà Việt H1 và Hà Văn H2 là vật Nhà nước cấm, 01 lọ nhựa màu trắng có dán mác giấy màu xanh và 01 quyển vở bên trong có những trang giấy màu trắng có dòng kẻ liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG màu trắng, số IMEL 35719503911365 của bị cáo Hà Việt H1 do bị cáo dùng để liên lạc vào việc mua bán ma túy nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước; trả lại cho bị cáo Hà Việt H1 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen xanh, số IMEL 864347048312292 do không liên quan đến hành vi phạm tội; trả lại cho bị cáo Hà Việt H1 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hà Việt H1 vì là giấy tờ tùy thân của bị cáo; số tiền 5.500.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội, trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu vàng nâu, BKS 12Z1 – 04789 thu giữ của bị cáo Hà Văn H2, là phương tiện các bị cáo sử dụng đi mua ma túy, xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bà Nông Thị S, khi các bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy bà S không được biết nên cần trả lại cho bà S; truy thu số tiền 600.000 đồng của bị cáo Hà Việt H1 do bán ma túy mà có.

[10] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Đối với người phụ nữ bán ma túy và người đàn ông giao ma túy cho các bị cáo: Do các bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ của những người này; Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm tra điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG của bị cáo Hà Việt H1 nhưng không tìm thấy số điện thoại gọi đến, gọi đi có đuôi số 283, do đó ngoài lời khai của các bị cáo không còn tài liệu nào chứng minh nên Cơ quan điều tra không đủ tài liệu để điều tra, xác minh làm rõ.

[12] Đối với Vy Đức T, Vy Văn C là những người mua ma túy của Hà Việt H: Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hai đối tượng này đều vắng mặt tại địa phương. Do đó Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[13] Đối với Lương Văn H, Phạm Văn H là những người mua ma túy của Hà Việt H1: Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu đến địa phương nơi các đối tượng cư trú để lập hồ sơ đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[14] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo cũng không khiếu nại về quá trình tiến hành tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Việt H1;

n cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hà Văn H2; Căn cứ vào điểm a, b, c khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

X:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

- Hình phạt chính:

Xử phạt bị cáo Hà Việt H1 08 (tám) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2019.

Xử phạt bị cáo Hà Văn H2 08 (tám) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2019.

- Hình phạt bổ sung:

+ Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn H2.

+ Áp dụng hình phạt bổ sung số tiền 5.000.000đồng (năm triệu đồng) đối với bị cáo Hà Việt H1 để sung Ngân sách Nhà nước.

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Cao Lộc niêm phong dán kín ghi “QUẢ TANG HÀ VIỆT H1”, có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,445 gam ma túy Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ);

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Cao Lộc niêm phong dán kín ghi “QUẢ TANG HÀ VĂN H2”, có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,058 gam ma túy Heroine và toàn bộ các vó bao gói (cũ);

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Cao Lộc niêm phong dán kín ghi “KHÁM XÉT KHẨN CẤP HÀ VIỆT H1”, có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 1,755 gam ma túy Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói (cũ);

+ 01 (một) lọ nhựa màu trắng có dán mác giấy màu xanh;

+ 01 (một) quyển vở bên trong có những trang giấy màu trắng có dòng kẻ;

- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng có số IMEI: 357195053911365 (kiểm tra khi máy bật nguồn), đã qua sử dụng của bị cáo Hà Việt H1;

- Trả lại cho bị cáo Hà Việt H1 các vật chứng sau:

+ 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Hà Việt H1;

+ 01 (một) phong bì của Công an huyện Cao Lộc được niêm phong dán kín, mặt trước có dòng chữ viết tay “TIỀN KHÁM XÉT số tiền: 5.500.000đ”, phần giáp lai mới được niêm phong bằng chữ ký cùng tên của giám định viên Ngô Văn Đông và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Bên trong phong bì đựng tiền Việt Nam sau giám định gồm: 5.500.000đ (năm triệu năm trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen xanh có số IMEI: 864347048312292 (kiểm tra khi máy bật nguồn), đã qua sử dụng;

- Trả lại cho bà Nông Thị S 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Winner màu vàng nâu, BKS 12Z1-04789 có số máy: KC26E1137579, số khung: RLHKC2608GY101561 đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/4/2020 giữa Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).

- Truy thu số tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) của bị cáo Hà Việt H1 do phạm tội mà có để nộp ngân sách Nhà nước;

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Hà Việt H1, Hà Văn H2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về