Bản án 40/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Vũ C, sinh ngày 25/5/1985; tại TP. Hồ Chí Minh;

Nơi cư trú: số 78/39 đường Đường X, Phường Y, Quận Z, TP. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Q và bà Phạm H;

Tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa từ ngày 06/11/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn M, sinh năm 1987. Thường trú tại: TP. Hà Nội.

Nơi cư trú: Quận 10, TP. Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 4 năm 2019, Vũ C có ý định dùng giấy tờ giả để liên hệ vay tiền của nhóm người cho vay online. Sau đó, C lên mạng trao đổi với người có nick zalo “XX” nhờ làm giả 02 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Mai D tại 02 địa chỉ số đường M, Phường 5, Quận 3 và số đường K, Phường 6, Quận 3 có tên Mai K trong hộ khẩu và 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy lái phép xe mang tên Mai K với giá 7.000.000 đồng. C đã chuyển tiền vào số tài khoản 0181003548918 tên Lâm T, mở tại ngân hàng Vietcomebank.

Sau đó, C đã sử dụng 01 sổ hộ khẩu có địa chỉ số đường M, Phường 5, Quận 3 liên lạc với “D K” (tên người cho vay online) dẫn đến địa chỉ trên để kiểm tra và đưa cho Dũng giữ chứng minh nhân dân mang tên Mai K để làm tin rồi vay số tiền 70.000.000 đồng, trả góp 4.000.000 đồng/ngày trong vòng 24 ngày.

Ngày 17/04/2019, C liên tục liên hệ với Nguyễn M và hẹn gặp tại trước số, Phường 5, Quận 3, C lái xe ô tô Honda Civic biển số 51G – 706.39 thuê của Công ty TNHH đến gặp M và đưa cho M 01 sổ hộ khẩu có địa chỉ đường M, Phường 5, Quận 3 có tên Mai K và viết giấy biên nhận bán xe để làm tin rồi nhận cọc số tiền 100.000.000 đồng. Sau khi thực hiện giao dịch, do không có khả năng trả nợ nên C đã tránh liên lạc với M.

Đến ngày 28/5/2019, C tiếp tục liên lạc với tên T (không rõ lai lịch) để vay số tiền 20.000.000 đồng và hẹn gặp tại số đường K, Phường 6, Quận 3. Lúc này, Tuấn phát hiện C là Mai K nên báo cho M đến đưa về trụ sở Công an Phưòng 6, Quận 3 trình báo. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 3, C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 1066/KLGD-TT ngày 19/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATPHCM, kết luận: 01 sổ hộ khẩu 31556200358 do ông Mai D đứng tên chủ hộ nhà đường M, Phường 5, Quận 3; 01 sổ hộ khẩu số 31556200358 do Mai D đứng tên chủ hộ nhà số đường K, Phường 6, Quận 3; 01 giấy phép lái xe loại A1 số 791183058864 do Mai K đứng tên là giả.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-HS ngày 13/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Vũ C về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn M vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam; Tiếp tục lưu hồ sơ vụ 01 sổ hộ khẩu số 31556200358 do ông Mai D đứng tên làm chủ hộ nhà số đường M, Phường 5, Quận 3 và 01 giấy phép lái xe loại A1 số 791183058864 do Mai K đứng tên; đối với 01 điện thoại Samsung màu vàng đồng Model SM – T710FN10S của bị cáo là phương tiện thực hiện phạm tội đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm do Công an Phường 6, Quận 3 lập ngày 18/5/2019; phù hợp với nội dung Biên bản bắt bị can để tạm giam do Cơ sở cai nghiện ma túy Phú Nghĩa lập ngày 06/11/2019; phù hợp nội dung các lời khai của nhân chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra, đã có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng tháng 4/2019, Vũ C có hành vi cung cấp thông tin địa chỉ số đường M, Phường 5, Quận 3 và số đường K, Phường 6, Quận 3 và hình ảnh của mình cho đối tượng sử dụng nick zalo “XX” để làm giả 02 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Mai D tại địa chỉ số đường M, Phường 5, Quận 3 và số đường K, Phường 6, Quận 3 có tên Mai K trong hộ khẩu và 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy lái phép xe mang tên Mai K với mục đích vay tiền tín chấp. Sau đó, C đã sử dụng sổ hộ khẩu có địa chỉ số đường M, Phường 5, Quận 3 liên lạc với “D K” (tên người cho vay online) và dẫn đến địa chỉ trên rồi đưa cho Dũng giữ chứng minh nhân dân mang tên Mai K để làm tin vay số tiền 70.000.000 đồng. Ngày 17/04/2019, C lại liên hệ với Nguyễn M và C lái xe ô tô Honda Civic biển số 51G – 706.39 thuê của Công ty TNHH Đầu tư và Du lịch Vận tải Bảo Bảo đến gặp Mạnh và đưa cho Mạnh 01 sổ hộ khẩu có địa chỉ đường M, Phường 5, Quận 3 có tên Mai K và viết giấy biên nhận bán xe rồi nhận cọc số tiền 100.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Xét, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đồng thời làm xấu tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Trong vụ án này có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo và đối tượng sử dụng nick zalo “XX” không có sự bàn bạc trước, không có sự câu kết chặt chẽ. Do đó, áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về đồng phạm để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[4] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 sổ hộ khẩu số 31556200358 do ông Mai D đứng tên làm chủ hộ nhà số đường X, Phường 5, Quận 3; 01 giấy phép lái xe loại A1 số 791183058864 là tài liệu hồ sơ vụ án, nghĩ nên tiếp tục lưu theo hồ sơ của vụ án.

- Đối với 01 điện thoại Samsung màu vàng đồng Model SM – T710FN10S của bị cáo, xét đây là phương tiện thực hiện phạm tội, nghĩ nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Đối với việc Vũ C dùng sổ hộ khẩu và giấy phép lái xe giả để vay tiền của “D K” do chưa xác định được lai lịch của “D K” và bị hại Nguyễn M hiện tại không có mặt ở nơi cư trú để làm việc nên chưa đủ cơ sở để xử lý Vũ C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đối với đối tượng sử dụng nick Zalo “XX” do chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do ông Nguyễn M đã bỏ đi khỏi nơi cư trú nên cơ quan điều tra chưa làm việc được khi nào làm rõ sẽ giải quyết sau.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; Điều 17 và Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tuyên bị cáo Vũ C đã phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt: Vũ C 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/11/2019.

Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án: 01 sổ hộ khẩu số 31556200358 do ông Mai D đứng tên làm chủ hộ nhà số đường M, Phường 5, Quận 3; 01 giấy phép lái xe loại A1 số 791183058864.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Samsung màu vàng đồng Model SM – T710FN10S.

(Tài sản tịch thu nộp ngân sách được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 258 ngày 31/01/2020 của Công an Quận 3).

Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về