Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2020/TLST - HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXX-ST ngày 01 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T - Sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Hoàng Đình D - Sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa Tại phiên toà có mặt anh D và chị T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Ti đơn khởi kiện ngày 06/7/2020 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Hoàng Đình D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới vào tháng 12/2017 và được UBND xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16/12/2017. Sau khi cưới được vài ngày chị phải trả nợ cho anh D, đến tháng 5/2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D chơi bời, cờ bạc, nợ tiền nên vợ chồng Thờng hay chửi bới cải vả nhau nhưng vẫn bình Thờng. Đến tháng 6/2019 chơi bời và anh D có xin lỗi, được vài ngày anh D đạp phá quạt vợ chồng cải nhau, anh D bỏ đi 2 ngày. Từ tháng 7/2019 do không chịu đựng được nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay. Từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Anh D có đến nói chuyện đưa chị về nhưng chị không đồng ý quay về. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn anh Hoàng Đình D.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Anh Th - Sinh ngày: 15/11/2018.

Hiện nay cháu khỏe mạnh bình Thờng và đang ở với chị. Nếu vợ chồng ly hôn nguyện vọng của chị là xin được nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chị đề nghị anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị mỗi tháng là 1.000.000đồng. Hiện nay chị làm công nhân may thu nhập hơn 4.000.000đ/tháng.

- Về tài sản: Chị T không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, biên bản hoà giải và tại phiên tòa anh Hoàng Đình D trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Hoàng Thị T kết hôn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới vào tháng 12/2017 và được Uỷ ban nhân dân xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vợ chồng sau khi kết hôn sinh sống bình Thờng, đến giữa năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chơi bời, cờ bạc dẫn đến nợ tiền nên cải nhau sau đó lại sống bình Thờng. Đến tháng 7/2019 do bực tức anh đã đạp phá quạt và anh đã bỏ đi hơn 1 ngày rồi về, đến sáng hôm sau chị T bế con về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay. Anh và gia đình có đến nói chuyện nhưng chị T không đồng ý, từ đó vợ chồng sống ly thân. Nay chị T có đơn xin ly hôn, quan điểm nguyện vọng của anh là xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh xin được đoàn tụ và hứa sửu chữa bản thân. Từ khi Tòa án hòa giải và có thời gian để khuyên giải nhưng vợ chồng không nói chuyện được vì chị T không muốn nói chuyện với anh.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Anh Th - Sinh ngày: 15/11/2018.

Hiện nay cháu khỏe mạnh bình Thờng và đang ở với chị T.

Nếu vợ chồng ly hôn nguyện vọng của anh xin được nuôi con và anh không đề nghị chị T cấp dưỡng nuôi con. Nếu chị T được nuôi con anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị T 2.000.000đ/tháng. Hiện nay anh là đá mỹ nghệ thu nhập 9.000.000đồng/tháng.

- Về tài sản: Anh D không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Lĩnh, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị T và anh D là vợ chồng, có đăng ký kết hôn, sau khi cưới chỉ được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn, anh D hay đi chơi bời lô đề, cờ bạc dẫn đến không hòa hợp quan tâm nhau. Tháng 7/2019 chị T về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân đến nay. Quan điểm của địa phương là mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ. Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Hoàng Anh Th, sinh năm 2018 hiện đang ở với chị T vợ chồng đều đi làm và có thu nhập.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh D; về con chung giao cháu Hoàng Anh Th cho chị T nuôi dưỡng. Anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T mỗi tháng 2.000.000đ. Các bên phải chịu tiền án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay chị T giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Hoàng Đình D kết hôn năm 2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Chị T và anh D đều thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ giữa năm 2018 do bất đồng quan điểm sống nên hay cải chửi nhau, anh D chơi bời nợ tiền nhiều người, tháng 7/2019 anh D chửi bới chị T và đập phá tài sản, nên chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 7/2019 đến nay.

Theo chính quyền địa phương cho biết anh D hay chơi bời cờ bạc, lô đề, dẫn đến không hòa hợp quan tâm nhau. Tháng 7/2019 chị T về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân đến nay. Quan điểm của địa phương là mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ.

Xét thấy, chị T thực sự không còn tình cảm với anh D, trong suốt quá trình giải quyết vụ án và Tòa án đã cho vợ chồng có thời gian khuyên giải, nhưng anh D cũng không đưa ra được phương án, không gặp được chị T để vợ chồng nói chuyện thông cảm tha thứ mong được đoàn tụ vì chị T không muốn gặp anh nói chuyện. Đến nay chị T vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được, thời gian ly thân đã lâu. Mặt khác anh D cũng thừa nhận vợ chồng hay chửi bới, anh có chơi bời cờ bạc nợ nhiều tiền, đập phá tài sản và chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống và ly thân từ tháng 7/2019 đến nay.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ Thơng yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị T đã thực sự không còn tình cảm với anh D, vợ chồng đã sống ly thân không quan tâm đến nhau. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh D là phù hợp.

[2] Về con: Vợ chồng đều thống nhất có 01 con chung là: Hoàng Anh Th - Sinh ngày: 15/11/2018.

Nguyện vọng của chị T: Nếu vợ chồng ly hôn do cháu Th còn nhỏ nên xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Th. Về cấp dưỡng nuôi con chị đề nghị anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị mỗi tháng là 1.000.000đồng.

Nguyện vọng của anh D: Nếu vợ chồng ly hôn anh xin được nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Nếu chị T được nuôi con anh cấp dưỡng nuôi con cùng chị T mỗi tháng là 2.000.000đồng.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Chị T và anh D đều có khả năng chăm sóc con tốt.

Hi đồng xét xử thấy rằng hiện nay cháu Th còn nhỏ, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ là con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, mà hiện nay cháu Th chưa đủ 36 tháng tuổi, nên cần giao cho mẹ nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của cháu. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu Th cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh D đề nghị nếu chị T nuôi dưỡng con anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng; Chị T thống nhất mức cấp dưỡng anh D đưa ra là 2.000.000đồng/tháng.

Hi đồng xét xử thấy rằng, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, mà đây cũng là nguyện vọng của anh, chị và mức cấp dưỡng đưa ra cũng phù hợp với thu nhập cũng như mức sống hiện nay. Do vậy Hội đồng xét xử buộc anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T mỗi tháng là 2.000.000đồng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 10/2020 đến khi cháu Th đủ 18 tuổi.

[3] Về tài sản: Chị T và anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Hoàng Thị T là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị T phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Anh D phải chịu 300.000đ án phí DSST về nghĩa vụ cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thờng vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Hoàng Đình D.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Anh Th - Sinh ngày 15 tháng 11 năm 2018.

2.1. Giao con chung Hoàng Anh Th cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Hoàng Đình D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Hoàng Thị T 2.000.000đ (Hai triệu đồng) một tháng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 10/2020 đến khi cháu Hoàng Anh Th đủ 18 tuổi.

2.4. Anh Hoàng Đình D có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị Hoàng Thị T và anh Hoàng Đình D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí:

- Chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009161 ngày 17/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ.

- Anh Hoàng Đình D phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:40/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về