Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 26/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 93/2020/TLST-HNGĐ, ngày 17 tháng 3 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 20/7/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2020/QĐST-HNGĐ ngày 07/8/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T; Sinh năm 1978 (Lê Thị Việt T, sinh năm 1976 có mặt);

Địa chỉ: phường P, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1; Sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: xã T, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/3/2020 (BL01),biên bản lấy lời khai ngày 13/7/2020 (BL 18) cũng như quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày: Vào năm 1997 bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn T1 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T và được UBND xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03/9/1997, sau lễ cưới bà T về làm dâu bên nhà chồng tại địa chỉ: xã T, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng, chung sống hạnh phúc đến năm 2009 thì mất hạnh phúc lý do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên tranh chấp cãi vã với nhau, nên bà T bỏ ông T1 về nhà cha mẹ ruột của bà T để sống cho đến nay và không còn liên lạc qua lại với nhau. Trong quá trình chung sống với nhau có 02 người con chung tên Nguyễn Nhựt T2, (nam) sinh ngày 29/11/1997 đang sống với mẹ, Nguyễn Thị Việt T3, (nữ) sinh ngày 22/9/2001 đang sống với cha. Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, nợ chung không có.

Nay bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân tan vỡ không thể hàn gắn lại được, do đó yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông T1. Về con chung hiện cháu T2, cháu T3 đã trưởng thành, lớn lên phát triển bình thường, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T1, nhưng ông T1 không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà T, đồng thời ông T1 cũng không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Tòa án chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông T1. Về con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Về tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét. Về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông T1, nhưng ông T1 vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt ông T1.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T, nhận thấy hôn nhân của bà T và ông T1 là tự tìm hiểu và đến với nhau, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Tân và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03/9/1997. Quan hệ hôn nhân của bà T và ông T1 không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2009 giữa bà T và ông T1 bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp. Bà T nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với ông T1 nên có nguyện vọng được ly hôn. Bà T và ông T1 đã không còn chung sống với nhau từ năm 2009 cho đến nay. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã phân tích, động viên bà T suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông T1, nhưng bà T vẫn cương quyết ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà T được ly hôn với ông T1.

[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Nhựt T2, (nam) sinh ngày 29/11/1997 đang sống với mẹ, Nguyễn Thị Việt T3, (nữ) sinh ngày 22/9/2001 hiện đang sống với cha, các cháu đã trưởng thành, lớn lên phát triển bình thường, bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà T khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà T khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Bà T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T đối với bị đơn Nguyễn Văn T1.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T1.

- Về con chung: Cháu Nguyễn Nhựt T2, (nam) sinh ngày 29/11/1997 đang sống với mẹ, Nguyễn Thị Việt T3, (nữ) sinh ngày 22/9/2001 hiện đang sống với cha, các cháu đã trưởng thành, lớn lên phát triển bình thường, bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung: Bà T khẳng định tài sản chung tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Bà T khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền ứng án phí bà T đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo Biên lai số 0003777, ngày 16/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà T đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Ông Nguyễn Văn T1 không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:40/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về