Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 120/2020/TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 12/6/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST - HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1988 (có mặt)

HKTT: Ấp B, xã BC, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Địa chỉ: Tổ 8, khu phố M, phường MX, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Mai Công T, sinh năm 1985 (vắng mặt)

HKTT: Xã C, huyện PC, tỉnh Bình Định.

Địa chỉ: Tổ 11, khu phố M, phường MX, thị xã PM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày của bà Đinh Thị H tại Tòa án:

Bà Đinh Thị H và ông Mai Công T chung sống với nhau từ năm 2017. Ông, bà có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào ngày 01/9/2017.

Bà H cho rằng vợ chồng chung sống với nhau chỉ hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì xảy ra mâu thuẫn do ông T chơi cờ bạc và có hành vi bạo lực với bà H. Bà H đã nhiều lần khuyên giải nhưng ông T không thay đổi. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 03 năm 2020 đến nay. Trong thời gian bà H nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với ông T tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, ông T đã tìm đến chỗ ở của bà H, đánh bà H. Nay bà H cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Mai Công T.

Về con chung: Bà H xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Mai Thanh Hiền N sinh ngày 15/11/2017. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu N sống với bà H. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N đến tuổi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Mai Văn T để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T cố tình vắng mặt, không tới Tòa án làm việc. Theo xác nhận của Công an phường MX, thị xã PM thì ông Mai Văn T có đăng ký lưu trú tại tổ 11, khu phố M, phường MX, thị xã Phú Mỹ.

Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông T nhưng ông T cũng không đến Tòa án làm việc.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với ông T và được nuôi dưỡng con chung. Bị đơn vắng mặt không có lý do.

Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án theo đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông T đã triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H được ly hôn với ông T; về con chung: Giao cháu N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông T không cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Bà H không có yêu cầu nên không xem xét, giải quyết; về án phí: Bà H chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng.

Ông Mai Công T có đăng ký lưu trú và hiện đang sinh sống tại tổ 11, khu phố M, phường MX, thị xã Phú Mỹ. Bà Đinh Thị H yêu cầu được ly hôn với ông T là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình về việc giải quyết vụ án; Bị đơn ông Mai Công T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham dự phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Qua thời gian quen biết và tìm hiểu nhau, bà Đinh Thị H và ông Mai Công T tự nguyện tiến tới hôn nhân, vợ chồng tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã BC, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo giấy chứng nhận kết hôn số 148 ngày 01/9/2017 .

Bà H cho rằng thời gian đầu vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau này phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, không có lòng tin yêu, tôn trọng lẫn nhau dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 đến nay. Bà H chuyển về nhà chị ruột tại tổ 8, khu phố M, phường MX, thị xã Phú Mỹ sinh sống. Hai bên không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Theo đơn xác nhận ngày 08/5/2020 của bà H và biên bản xác minh ngày 26/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ tại Công an phường MX, thị xã Phú Mỹ thể hiện: Vào ngày 27/4/2020, ông T đã đến chỗ ở của bà H và có hành vi đánh bà H. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông T không đến Tòa án làm việc, không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H, ông T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, cần áp dụng các điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H được ly hôn với ông T.

[3] Về con chung: Bà H xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Mai Thanh Hiền N, sinh ngày 15/11/2017. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay, cháu N sống với bà H. Bà H hiện làm giáo viên tại trường mầm non TN thuộc khu phố M, phường MX, thị xã Phú Mỹ thu nhập 6.000.000 đồng/tháng đảm bảo cho cháu N phát triển về thể chất cũng như tinh thần. Cháu N chưa đủ 36 tháng tuổi. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của bà H, giao cháu N cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà H tự nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Bà H phải nộp án phí hôn nhân gia đình theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị H về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với ông Mai Công T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị H được ly hôn với ông Mai Công T.

2. Về con chung: Bà Đinh Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Mai Thanh Hiền N, sinh ngày 15/11/2017 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Công nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Ông Mai Công T được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà Đinh Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Đinh Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Đinh Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004424 ngày 26/02/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Như vậy, bà H đã nộp xong án phí.

Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. (Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:40/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về