Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về ly hôn giữa chị T và anh T1

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH T1

Ngày 19 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện TY, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 87/2020/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2020/QĐ-HPT ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1997( có đơn xin vắng mặt) Nơi đăng ký HKTT: Thôn B (nay là tổ dân phố B), thị trấn CT, huyện TY tỉnh Bắc Giang.

Hiện trú tại: thôn HT (nay là tổ dân phố HT), thị trấn CT, huyện TY, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Trần Đức T1, sinh năm 1994 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn B (nay là tổ dân phố B), thị trấn CT, huyện TY, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 22/4/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Trần Đức T1 kết hôn ngày 26/4/2016, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã CT (nay là thị trấn CT), huyện TY, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị về làm dâu tại gia đình anh T1 ngay. Ban đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến đầu năm 2019 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế, anh T1 còn hay ghen tuông nghi ngờ chị có người đàn ông khác nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng chị đã ly thân từ tháng 6/2019 cho đến nay, không quan tâm chăm sóc gì cho nhau.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh Trần Đức T1.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng sinh được 01 con chung là Trần Đức T2, sinh ngày 30/01/2017. Hiện con chung đang do mẹ đẻ anh T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉ thứ 7, chủ nhật chị mới đón con chung về ở với chị. Ly hôn chị xin được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị đang làm công nhân tại khu công nghiệp QC, VY, Bắc Giang thu nhập trung bình của chị là 10.000.000 đồng/01 tháng nên có đủ điều kiện nuôi con.

Tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị T có đơn xin vắng mặt.

Đối với anh Trần Đức T1 là bị đơn trong vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng tại các buổi hòa giải, làm việc của Tòa án anh T1 đều vắng mặt không có lý do và Tòa án đã thông báo cho anh T1 về các chứng cứ Tòa án đã thu thập có trong vụ án nhưng anh T1 không có ý kiến gì và không cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho quyền lợi của mình.

Tại phiên toà, anh T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán: thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền, xác định mối quan hệ tranh chấp, những người tham gia tố tụng đúng, đủ; tiến hành thu thập chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hoà giải, tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng, chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của BLTTDS; Hội đồng xét xử (HĐXX) đảm bảo về thành phần, nguyên tắc xét xử; tại phiên toà HĐXX đã thực hiện đủ, đúng các quy định của BLTTDS về phiên tòa sơ thẩm; Thư ký chấp hành đúng quyền hạn, trách nhiệm theo quy định; Nguyên đơn, có ý thức chấp hành các quy định của BLTTDS, bị đơn chưa chấp hành các quy định của BLTTDS. Về nội dung vụ án, sau khi phân tích Kiểm sát viên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh T1; Con chung: giao cho chị T được nuôi dưỡng con chung là Trần Đức T2, sinh ngày 30/01/2017, anh T1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết; Về án phí: chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến đề nghị của đương sự, Kiểm sát viên. Sau khi thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về thẩm quyền: ngày 23 tháng 4 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện TY thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T với bị đơn là anh Trần Đức T1 là theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự:

 [2] Về tố tụng: tại phiên tòa chị Nguyễn Thị T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Trần Đức T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T1 là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét các yêu cầu của nguyên đơn thấy:

[3] Về tình cảm vợ chồng: chị Nguyễn Thị T và anh Trần Đức T1 kết hôn ngày 26/4/2016, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cao Thượng (nay là thị trấn CT), huyện TY, tỉnh Bắc Giang, đây là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống và làm ăn kinh tế, vợ chồng nghi ngờ không tin tưởng nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng chị T, anh T1 đã ly thân từ tháng 6/2019 cho đến nay, không quan tâm chăm sóc gì đến nhau. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Trần Đức T1. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh với mẹ đẻ của anh T1 và tại địa phương thì thấy hiện vợ chồng chị T anh T1 đã ly thân, mâu thuẫn giữa chị T và anh T1 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình để xử cho chị T được ly hôn với anh T1.

[4] Về con chung: chị T và anh T1 có 01 con chung là Trần Đức T2, sinh ngày 30/01/2017. Hiện nay cháu Toàn đang do mẹ đẻ anh T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, còn anh T1 đi làm ăn thi thoảng mới về nhà. Hiện tại chị T là công nhân tại khu công nghiệp QC, VY, thu nhập thường xuyên là 10.000.000 đồng/01 tháng đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là đảm bảo về mọi mặt của con khi ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Chị T, anh T1 không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại điều 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân gia đình, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Trần Đức T1.

2. Về con chung: giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Đức T2, sinh ngày 30/01/2017. Anh T1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số AA/2018/0006272 ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Yên. Xác nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 19/08/2020 về ly hôn giữa chị T và anh T1

Số hiệu:40/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về