TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 40/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/07/2020 VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON
Trong ngày 02 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 322/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 về "Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1997 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn Đào X, xã An Đ, huyện Quỳnh Ph, tỉnh Thái Bình
Hộ khẩu: Thôn Lộng Khê 2, xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Bị đơn: Anh Vũ Văn H, sinh năm 1986 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Đào X, xã An Đ, huyện Quỳnh Ph, tỉnh Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn yêu cầu ngày 16/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Chị Nguyễn Thị L trình bày: Theo Quyết định tái thẩm số 39/2019/HNGĐ-TT ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Chị Lan yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xác định cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017 không phải là con chung của chị với anh Vũ Văn H. Chị xác định cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017 là con chung của chị với anh Lê Đắc Đức. Tài liệu chứng M yêu cầu của chị Lan gồm: Hồ sơ Giám đốc thẩm (Tổng số có 40 bút lục trong hồ sơ vụ án được đánh số từ 01- 40 trong đó có bút lục 1a, 08a); 01 Tập tài liệu tái thẩm gồm 23 bút lục và Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm và Kết quả xét nghiệm ADN ngày 10/5/2019 của Công ty TNHH công nghệ ADN Việt Nam.
Anh Vũ Văn H có ý kiến trình bày: Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 150/2017/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ về phần con chung trong vụ án “Hôn nhân và gia đình” giữa Chị Nguyễn Thị L và anh Vũ Văn H. Anh H đã không công nhận Bản Kết quả giải trình tự ADN, No: KQ 0110052019 ngày 14/5/2019 giữa cha giả định Lê Đắc Đức và con giả định Vũ Khang M của Công ty TNHH công nghệ ADN Việt Nam. Anh H không đồng ý với Quyết định tái thẩm số: 39/2019/HNGĐ-TT ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và không yêu cầu giám định lại hay giám định bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, người tham gia tố tụng nguyên đơn là chị Lan đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh H vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nên Viện kiểm sát không đưa ra quan điểm về chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa hôm nay.
Về nội dung: Căn cứ khoản 2 Điều 88; khoản 2 Điều 101 và khoản 2 Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Nguyễn Thị L. Cần xác định Chị Nguyễn Thị L là mẹ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017. Anh Vũ Văn H không phải là cha đẻ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017. Về án phí, chị Lan không phải chịu án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ nhận định:
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị L yêu cầu xác định cha, mẹ cho con, căn cứ khoản 4 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Tại phiên tòa ngày 04 tháng 6 năm 2020 chị Lan vắng mặt. Anh H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự và tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu của chị Lan xác định cha, mẹ cho con: Theo Quyết định tái thẩm số: 39/2019/HNGĐ -TT ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội “...Căn cứ vào khoản 2 Điều 356, Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hủy một phần Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 150/2017/QĐST- HNGĐ ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về phần con chung trong vụ án “Hôn nhân và gia đình” giữa nguyên đơn là Chị Nguyễn Thị L, bị đơn là anh Vũ Văn H...”. Đây là những tình tiết không phải chứng M theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại Công văn trả lời Công văn số 15/TA về việc: Đề nghị cung cấp thông tin giám định ADN liên quan đến việc giải quyết vụ án, đề nghị xác định nội dung kết quả giải trình tự ADN của của công ty TNHH Công nghệ ADN Việt Nam, đã xác định: “...Cha giả định: Lê Đắc Đức, sinh ngày 21/09/ 1992, địa chỉ: Xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, số CMND: 151912487 cấp ngày 10/04/2007. Con giả định: Vũ Khang M, sinh ngày 02/07/ 2017; giấy khai sinh số 95 cấp ngày 27/07/ 2017 tại UBND xã An Đồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Bản kết quả giải trình tự ADN, No: KQ 0110052019 ngày 14/05/2019 giữa hai người trên đúng là do Công ty TNHH Viện công nghệ AND (trước đây tên là công ty TNHH Công nghệ AND Việt Nam) phát hành...”. Như vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị Lan xác định Chị Nguyễn Thị L là mẹ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017. Anh Vũ Văn H không phải là cha đẻ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017 theo khoản 2 Điều 88; khoản 2 Điều 101 và khoản 2 Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về yêu cầu của anh Vũ Văn H: Anh H không đồng ý với kết quả giám định và Quyết định tái thẩm số: 39/2019/HNGĐ-TT ngày 16/10/ 2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và anh H cũng không yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung. Như vậy anh H không chấp nhận yêu cầu của chị Lan nhưng anh không đưa ra được các chứng cứ tài liệu, chứng M anh là cha của cháu M cho nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của anh H. Do đó cần xác định anh Vũ Văn H không phải là cha đẻ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của chị Lan được chấp nhận cho nên chị Lan không phải chịu án phí xác định cha, mẹ cho con. [6] Về quyền kháng cáo: Chị Lan, anh H có quyền kháng cáo theo pháp luật tố tụng dân sự.
[7] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên có căn cứ chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5, khoản 4 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và khoản 1 Điều 228, Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 88; khoản 2 Điều 101 và khoản 2 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của Chị Nguyễn Thị L về việc xác định cha, mẹ cho con.
2. Xác định Chị Nguyễn Thị L là mẹ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017. Anh Vũ Văn H không phải là cha đẻ của cháu Vũ Khang M, sinh ngày 02/7/2017.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L không phải chịu tiền án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Lan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày 02 tháng 7 năm 2020. Anh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 40/2020/HNGĐ-ST ngày 02/07/2020 về xác định cha, mẹ cho con
Số hiệu: | 40/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về