Bản án 40/2019/HSST ngày 13/05/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 40/2019/HSST NGÀY 13/05/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/TLST-HS ngày 08/4/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 02/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thiên A, giới tính: nam, sinh năm: 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Nhà không số, tổ 31, khu phố 3, Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà không số, tổ 31, khu phố 3, Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Làm thuê. Trình độ văn hóa: 01/12. Con ông Trần Văn B (chết) và con bà Trần Lê Thủy C, sinh năm: 1972.Vợ, con: Không có. Tiền sự: Năm 2016, Công an quận Bình Thạnh bắt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại trung tâm cai nghiện ma túy Bố Lá (Quyết định số 104/QĐ-TA ngày 23/3/2017).Chấp hành xong ngày 09/5/2018. Tiền án: Ngày 22/7/2011, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2010 theo bản án số 165/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 26/02/2014. Ngày 16/9/2014, Tòa án nhân dân quận 1 xử phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2014 theo bản án số 230/2014/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/7/2016. Chưa thi hành xong các khoản án phí 200.000 dồng, phạt tiền 5.000.000 đồng. Tạm giam: Từ ngày 11/11/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Nguyễn Thành D; địa chỉ: 28 L, Phường K, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lê Nguyễn Minh E; địa chỉ: 539/4/8 S, phường R. Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

2/ Bà Trần Tú G; địa chỉ: 8E/6 Khu phố Đồng An 1, Phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).

3/ Ông Trần Văn H; địa chỉ: Nhà không số, đường M, Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11/11/2018, Trần Thiên A điều khiển xe gắn máy Luvias, biển số 59D1-575.45 chạy ngược chiều đường Xô Viết Nghệ Tĩnh để tránh kẹt xe theo hướng từ Thị Nghè về ngã tư Hàng Xanh. Khi đến trước số 135 V, Phường K, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, A thấy ông Nguyễn Thành I đang cầm điện thoại di động Iphone 7 Plus đứng chờ xe Grab, A nảy sinh ý định cướp giật điện thoại đem bán lấy tiền tiêu xài. A điều khiển xe áp sát ông I rồi dùng tay trái giật lấy điện thoại rồi tăng ga bỏ chạy. Liền lúc đó, ông I với theo dùng tay trái nắm được cổ áo của A làm A té ngã xuống đường, A bỏ xe máy và điện thoại chạy bộ đến trước số 137 V, Phường K, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị ông I và người dân bắt giữ giao cho Công an phường 17, quận Bình Thạnh lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Bình Thạnh xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Thiên A khai nhận hành vi cướp giật điện thoại di động Iphone 7 Plus của ông Nguyễn Thành I như trên.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 273/KLĐGTS-TCKH ngày 12/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 7 plus có giá trị 7.000.000 đồng (BL 35).

Thu giữ, xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động Iphone 7 plus của ông Nguyễn Thành I. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông I.

- 01 xe gắn máy biển số 59D1-575.45. Qua xác minh số khung, số máy thì xe máy trên thực tế có biển số 61C1-486.69 do bà Trần Tú G đứng tên đăng ký xe. Năm 2016, bà G bán xe máy trên cho ông Trần Văn H nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 11/11/2018 ông H giao xe máy trên cho cháu ruột là Trần Thiên A sử dụng đi công việc. Sau khi mượn xe của chú, Trần Thiên A mua một biển số giả 59D1-575.45 ở khu vực Quận 6 rồi gắn vào xe gắn máy Luvias trên rồi đi cướp giật tài sản. Việc A mượn xe ông H đi công việc và tự ý sử dụng xe đi cướp giật ông H không biết. Xét chiếc xe là tài sản hợp pháp của ông H, Cơ quan điều tra đã trả xe trên cho ông H.

Đối với biển số 59D1-575.45, qua xác minh biển số trên thuộc xe gắn máy Honda Airblade do ông Lê Nguyễn Minh E đứng tên đăng ký xe. Năm 2016, ông E đã bán xe gắn máy trên cho một người đàn ông (không rõ lai lịch), không làm giấy tờ mua bán. Ông E không có yêu cầu nhận lại biển số xe trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Nguyễn Thành I đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thiên A đã thừa nhận hành vi phạm tội “Cướp giật tài sản” của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 57/CTr-VKS ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thiên A về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định: bị cáo Trần Thiên A đã có hành vi cướp giật tài sản.

Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Trần Thiên A từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11/11/2018, Trần Thiên A điều khiển xe gắn máy Luvias, biển số 59D1-575.45 chạy ngược chiều đường Xô Viết Nghệ Tĩnh để tránh kẹt xe theo hướng từ Thị Nghè về ngã tư Hàng Xanh. Khi đến trước số 135 V, Phường K, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. A thấy ông Nguyễn Thành I đang cầm điện thoại di động Iphone 7 Plus đứng chờ xe Grab, A nảy sinh ý định cướp giật điện thoại đem bán lấy tiền tiêu xài. A điều khiển xe áp sát anh I rồi dùng tay trái giật lấy điện thoại rồi tăng ga bỏ chạy. Liền lúc đó, anh I với theo dùng tay trái nắm được cổ áo của A làm A té ngã xuống đường, A bỏ xe máy và điện thoại chạy bộ đến trước số 137 V, Phường K, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị anh I và người dân bắt giữ giao cho Công an phường 17, quận Bình Thạnh lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Bình Thạnh xử lý.

[3] Về động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Xét bị cáo là người có đủ sức khỏe để lao động kiếm sống, bằng ý thức của mình,bị cáo biết rõ đó là tài sản đang thuộc sở hữu của người khác, nhưng do lười lao động mà lại muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài cho bản thân nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở về cách quản lý tài sản của chủ sở hữu để thực hiện hành vi cướp giật tài sản.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự quản lý xã hội của Nhà nước, gây tác động xấu đến đời sống xã hội, gây hoang mang lo lắng cho nhân dân khi tham gia lưu thông trên đường phố. Hành vi cướp giật tài sản còn có thể gây nguy hại đến sức khỏe, sinh mạng của con người khi bị cáo cố tình trốn chạy sự truy đuổi của người dân và cơ quan chức năng nên Hội đồng xét xử cần phải có một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét bị cáo đã phạm tội rất nghiêm trọng, tính đến thời điểm phạm tội mới bị cáo chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, được quy định tại điểm i, khoản 2, Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét, bị cáo phạm tội nhưng tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại và họ cũng không có yêu cầu bồi thường gì khác đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

[5] Về xử lý vật chứng:

Biển số 59D1-575.45 thuộc xe gắn máy Honda Airblade do ông Lê Nguyễn Minh E đứng tên đăng ký xe. Năm 2016, ông E đã bán xe gắn máy trên cho một người đàn ông (không rõ lai lịch), không làm giấy tờ mua bán, ông E không có yêu cầu nhận lại biển số xe trên nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu tiêu hủy.

Các vật chứng còn lại Cơ quan điều tra đã xử lý xong nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Nguyễn Thành I không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử ghi nhận và miễn xét.

[7] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo có mặt tại phiên tòa và người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thiên A phạm tội “Cướp giật tài sản”;

Áp dụng điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: bị cáo Trần Thiên A 05 (năm) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 11/11/2018.

2. Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 59D1-575.45.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: bị cáo Trần Thiên A phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HSST ngày 13/05/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:40/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về