Bản án 40/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 40/2019/HS-ST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng L (Tên gọi khác: Tý) - Sinh ngày 20.5.1982 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 01A, phường T, quận H, TP Đà Nẵng; Chỗ ở: K482/10 đường T, tổ 27, phường N, quận L, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trọng K (sinh năm 1958) và bà Phan Thị H (sinh năm 1959); Có vợ Nguyễn Thị D; Có con 02 con là Nguyễn Trọng V (sinh năm 2003) và Nguyễn Thị Thảo V (sinh năm 2006)

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 08.01.1999 bị Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản.

- Ngày 24.5.2002 bị Toà án nhân dân quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng xử phạt 36 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản.

- Ngày 01.3.2010 bị Toà án nhân dân quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt chính ngày 19.01.2011, các phần khác của Bản án chấp hành xong ngày 18.9.2012.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 31 tháng 10 năm 2018, hiện đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1982; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, phường H, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh; Tạm trú: Số 16 đường P, phường H, quận L, TP Đà Nẵng, hiện đang bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Cở sở xã hội Bầu Bàng, TP Đà Nẵng - Xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn C, sinh năm 1973; Trú tại: Tổ 95, phườngM, quận L, TP Đà Nẵng - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 30.10.2018, Nguyễn Trọng L mua của một thanh niên tên D (chưa rõ lai lịch) tại bến xe Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà 2.500.000 đồng ma tuý đá rồi đem về Đà Nẵng cất giấu để sử dụng. Đến ngày 31.10.2018, L đem số ma tuý về chia nhỏ ra và bỏ vào 04 gói nhựa cứng và 01 bao nilong rồi cất giấu trong phòng ngủ ở nhà của L tại tổ 27, phường N, quận L, thành phố Đà Nẵng. Số ma tuý còn lại L bỏ vào 04 gói nhựa cứng rồi để trong 01 hộp kim loại cất trong túi xách hiệu Gucci và đem theo để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31.10.2018, khi L cùng với bạn là Nguyễn Mạnh H đi đến khu vực đường L, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng, thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an quận L và Công an phường M kiểm tra hành chính, phát hiện và bắt quả tang L đang cất giấu trong túi xách của mình 01 hộp thiết bên trong có 04 gói nhựa cứng bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá (kí hiệu A). Tiếp tục khám xét nơi ở của L tiếp tục phát hiện 04 gói nhựa cứng và 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá (kí hiệu B).

Tang vật tạm giữ: 04 gói nilong trắng bên trong có chứa một số hạt tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá kí hiệu A; 04 gói nhựa cứng và 01 gói nilong bên trong có chứa một số hạt tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý loại hàng đá kí hiệu B; 01 túi xách màu đen; 01 hộp kim loại màu trắng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng L; 01 điện thoại hiệu Philips màu xám; 01 lọ thuỷ tinh, 16 ống thuỷ tinh, 20 bao nilon, 07 ống hút nhựa màu trắng, 01 cân tiểu ly. Những vật chứng này chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu tạm thời quản lý.

Theo Kết luận giám định số 219/GĐ-MT ngày 07.11.2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A, B gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng: A: 1,754 gam; B:19,654 gam; tổng cộng 21,408 gam.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKS, ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Nguyễn Trọng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Nguyễn Trọng L, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định đã được niêm phong; 01 hộp kim loại màu trắng; 01 lọ thuỷ tinh, 16 ống thuỷ tinh, 20 bao nilon, 07 ống hút nhựa màu trắng, 01 cân tiểu ly; 01 túi xách màu đen.

- Trả lại cho Nguyễn Trọng L 01 điện thoại hiệu Philips màu xám.

- Trả lại cho Nguyễn Trọng L 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng L.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng L đã thành khẩn, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo xác nhận cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội. Bị cáo thấy được hành vi phạm tội, ăn năn hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng L và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trọng L trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại khu vực đường L, phường M, quận L, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Trọng L bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an quận L và Công an phường M bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép 1,754 gam ma túy loại Methamphetamine; khám xét nơi ở của L tiếp tục phát hiện bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 19,654 gam ma túy loại Methamphetamine; tổng cộng 21,408 gam. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Trọng L tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cá nhân.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Trọng L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như bản Cáo trạng số 17/CT-VKS, ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo thì thấy: Ma túy là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và nhiều loại hình tội phạm khác nên bị pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo Nguyễn Trọng L nhận thức rõ những tác hại củama túy nhưng vẫn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi tàng trữ trái phép 21,408 gam ma túy loại Methamphetamine của bị cáo thuộc tình tiết định khung quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội.

 [3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trọng L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, Nguyễn Trọng L có nhân thân xấu: Ngày 08.01.1999 bị Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; ngày 24.5.2002 bị Toà án nhân dân quận C xử phạt 36 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; ngày 01.3.2010 bị Toà án nhân dân quận S xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo, chấp hành xong hình phạt chính ngày 19.01.2011, các phần khác của Bản án chấp hành xong ngày 18.9.2012. Do đó, HĐXX xét thấy cần phải xử lý nghiêm.

 [3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét mức hình phạt bị cáo khi lượng hình.

 [4] Về xử lý vật chứng:

Hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận L tạm giữ toàn bộ các vật chứng sau (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27 tháng 3 năm 2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận L và Công an quận L):

- Toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định đã được niêm phong; 01 hộp kim loại màu trắng; 01 lọ thuỷ tinh, 16 ống thuỷ tinh, 20 bao nilon, 07 ống hút nhựa màu trắng, 01 cân tiểu ly; 01 túi xách màu đen.

- 01 điện thoại hiệu Philips màu xám.

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng L. 

HĐXX xét thấy:

- Toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định đã được niêm phong ngày 07/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Đà Nẵng; 01 hộp kim loại màu trắng; 01 lọ thuỷ tinh, 16 ống thuỷ tinh, 20 bao nilon, 07 ống hút nhựa màu trắng, 01 cân tiểu ly; 01 túi xách màu đen là vật chứng của vụ án nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu Philips màu xám không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

- 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng L là giấy tờ cá nhân nên cần phải trả lại cho bị cáo Nguyễn Trọng L.

 [5] Đối với anh Nguyễn Mạnh H không biết việc tàng trữ trái phép chất ma tuý của Nguyễn Trọng L nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là có cơ sở.

 [6] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Trọng L phải chịu 200.000đ. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ vào: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Nguyễn Trọng L 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31 tháng 10 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

2.1. Tịch thu tiêu hủy những vật chứng sau: Toàn bộ chất ma tuý hoàn trả sau giám định đã được niêm phong ngày 07/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công anthành phố Đà Nẵng; 01 hộp kim loại màu trắng; 01 lọ thuỷ tinh, 16 ống thuỷ tinh, 20 bao nilon, 07 ống hút nhựa màu trắng, 01 cân tiểu ly; 01 túi xách màu đen.

2.2. Trả lại cho Nguyễn Trọng L 01 điện thoại hiệu Philips màu xám và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng L.

(Toàn bộ vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo biên bản giao, nhân vật chứng ngày 27 tháng 3 năm 2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu và Công an quận Liên Chiểu)

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Trọng L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) trích sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

404
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về