TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 24 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 227/2019/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 8 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1192/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1310/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Huy T, trú tại: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Phạm Tiến L, trú tại: Thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 7 năm 2019, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của nguyên đơn là chị Lê Huy T trình bày:
Chị xây dựng hạnh phúc với anh Phạm Tiến L do tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 23 tháng 9 năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh L sống không có trách nhiệm với vợ con, anh L tụ tập bạn bè, chơi bời nghiện ma túy, anh L lừa dối mượn xe cắm lấy tiền chơi bời. Chị và gia đình đã khuyên can, góp ý nhưng anh L không thay đổi cách sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, chị đưa con về nhà mẹ đẻ cùng thôn ở từ tháng 6 năm 2019 và sống ly thân với anh L từ đó đến nay, hai bên không còn quan tâm đến nhau vì tình cảm vợ chồng không còn. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Tiến L.
Về con chung: Chị T trình bày chị và anh L có 02 con chung là Phạm Lê Phương A, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017 và Phạm Minh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2019. Ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi các con.
Về tài sản chung, công nợ: Chị T trình bày chị tự thỏa thuận với anh L, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Phạm Tiến L đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh không đến tòa án để giải quyết việc Chị T xin ly hôn anh nên không có lời khai của anh L.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Lê Huy T đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Chị T vắng mặt nhưng chị có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Phạm Tiến L không đến tham gia tố tụng tại tòa án là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 19, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Lê Huy T được ly hôn anh Phạm Tiến L; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con là Phạm Lê Phương A, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017 và Phạm Minh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2019 cho chị Lê Huy T nuôi dưỡng, Chị T không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi các con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh L; về tài sản chung, công nợ: Chị T không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Chị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Nguyên đơn chị Lê Huy T vắng mặt tại phiên tòa nhưng Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Phạm Tiến L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Lê Huy T và anh Phạm Tiến L.
Về nội dung vụ án:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Huy T và anh Phạm Tiến L xây dựng hạnh phúc với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 23 tháng 9 năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện A, thành phố Hải Phòng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chuyển về thôn T, xã A, huyện A sinh sống. Quá trình chung sống anh chị xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L không tu chí gia đình, không có trách nhiệm với vợ con, chơi bời và nghi nghiện ma túy. Mâu thuẫn của vợ chồng Chị T anh L được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả, Chị T đưa con về nhà mẹ ở và sống ly thân với anh L thời gian dài, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa Chị T và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, Chị T xin ly hôn anh L là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị T và anh L có 02 con chung là Phạm Lê Phương A, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017 và Phạm Minh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2019. Ly hôn Chị T đề nghị được nuôi cả 02 con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh L vắng mặt nên không có ý kiến về vấn đề con chung. Xét hiện nay 02 con của Chị T và anh L dưới 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc của người mẹ, hiện Chị T đang ở cùng mẹ chị có nơi ở tốt và được sự hỗ trợ mọi mặt của gia đình đảm bảo điều kiện nuôi các con. Căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao cho Chị T nuôi dưỡng 02 con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh L.
[5] Về tài sản chung, công nợ: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Lê Huy T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Chị Lê Huy T được ly hôn anh Phạm Tiến L.
2. Về con chung: Giao 02 con Phạm Lê Phương A, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017 và Phạm Minh A, sinh ngày 26 tháng 02 năm 2019 cho chị Lê Huy T nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Phạm Tiến L.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lê Huy T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí Chị T đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017324 ngày 06 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Lê Huy T và anh Phạm Tiến L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 40/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về