Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2019/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2019 về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Tổ dân phố Ngoại H, phường Quảng T, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

- Bịđơn: Anh Trần N, sinh năm 1988.

Nơi cư trú: Tổ dân phố Ngoại H, phường Quảng T, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23/7/2019, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày: Chị và anh Trần N yêu nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Quảng T, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình vào ngày 12/4/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc tại nhà bố mẹ đẻ của anh N được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, hay xảy ra cãi vã, anh N sống không có không có lập trường và không quan tâm đến vợ, gia đình chồng xua đuổi, dùng những lời lẽ thậm tệ xúc phạm đến chị. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần N.

Về con chung: Không có. Về tài sản chung: Không có. Hiện tại vợ chồng chị không nợ ai và không ai nợ vợ chồng chị nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với anh Trần N: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo việc thụ lý vụ án, đồng thời triệu tập anh đến Tòa án và Ủy ban nhân dân phường Quảng T nhiều lần để giải quyết việc chị Lê Thị T xin ly hôn, nhưng anh Trần N vắng mặt không có lý do và không gửi ý kiến bằng văn bản cho Tòa án biết.

Qua xác minh tại địa phương (UBND phường Quảng T) thì anh Trần N đang có hộ khẩu thường trú tại địa phương. Qua xác minh tại gia đình (bố mẹ đẻ anh N) thì anh Trần N đều nhận được thông tin (các văn bản tố tụng) liên quan đến việc giải quyết vụ án mà Tòa án tống đạt.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật, không đến tham gia tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình:

- Xét xử vụ án vắng mặt anh Trần N;

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị T được ly hôn với anh Trần N;

- Về quan hệ con chung: Không có, không xem xét.

- Về quan hệ tài sản: Không có, không xem xét;

- Về án phí: Chị Lê Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời triệu tập anh Trần N đến Tòa án và Ủy ban nhân dân phường Quảng T hợp lệ nhiều lần để giải quyết việc chị Lê Thị T xin ly hôn, nhưng anh Trần N vắng mặt không có lý do và không gửi ý kiến bằng văn bản cho Tòa án biết.

Qua xác minh tại địa phương (UBND phường Quảng T) thì anh Trần N đang có hộ khẩu thường trú tại địa phương. Mặt khác, bố mẹ đẻ của anh N cho biết anh N đã được thông tin (các văn bản tố tụng) về việc giải quyết vụ án do Tòa án tống đạt. Anh Trần N được Tòa án triệu tập 02 lần đến tham gia tố tụng tại phiên tòa vào các ngày 25/10/2019 và ngày 11/11/2019, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, xử vắng mặt anh Trần N là có căn cứ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Trần N có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Quảng T, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình) vào ngày 12/4/2017 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh N không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm đến vợ, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, mâu thuẩn mẹ chồng nàng dâu không thể dung hòa được. Chị T chuyển về sống cùng bố mẹ đẻ của chị, từ đó vợ chồng sống ly thân, không ai còn quan tâm đến ai. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã nhiều lần tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên hòa giải và giao nộp chứng cứ cũng như tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do và không gửi ý kiến bằng văn bản cho Tòa án biết. Chứng tỏ anh N cũng chẳng tha thiết gì đến việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình, xét thấy tình cảm vợ chồng khó có thể hàn gắn được. Vì vậy cần áp dụng các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị T được ly hôn với anh Trần N là có cơ sở.

[3] Về quan hệ con chung và tài sản chung: Không có

[4] Về án phí ly hôn: Chị Lê Thị T phải chịu theo luật định.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xét xử vụ án vắng mặt anh Trần N.

2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Trần N.

3.Về quan hệ con chung: Không có.

4. Về quan hệ tài sản chung: Không xem xét.

5. Về án phí: Chị Lê Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002427 ngày 23 tháng 7 năm 2019. (Chị Lê Thị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm).

6. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm(11/11/2019); anh Trần N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án do Tòa án tống đạt hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã, phường nơi anh N thường trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về