Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY - TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 40/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 144/2019/TLST-HNGĐ ngày 27/6/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/9/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/9/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị P, địa chỉ: Thôn N, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, địa chỉ: Thôn N, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 18/6/2019, bản tự khai ngày 24/7/2019 cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Hoàng Thị P đều trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn L trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 02/10/2000. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống tương đối hạnh phúc được khoảng 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng thiếu tin tưởng nhau về kinh tế, thường xuyên lục đục, gây gổ nhau dẫn đến anh L nhiều lần đánh đập chị làm mất mát tình cảm. Chị và gia đình hai bên đã nhiều lần góp ý, khuyên can để anh L thay đổi nhưng không có tác dụng gì nên chị và hai con về sống với gia đình bố mẹ chị từ đầu năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai nữa. Hiện tại chị P xác định tình cảm giữa chị và anh L thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh L.

Bị đơn anh Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai cũng như các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tống đạt hợp lệ.

Con chung: Chị P trình bày: Chị và anh L có hai con chung: Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 30/8/2001 và Nguyễn Minh P, sinh ngày 18/5/2009. Từ khi vợ chồng ly thân hai con vẫn ở với chị P. Sau khi ly hôn, chị P yêu cầu được trực tiếp nuôi con thứ hai Nguyễn Minh P, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con vì chị đủ khả năng và điều kiện nuôi con. Còn con đầu Nguyễn Văn Đ đã tròn 18 tuổi, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị P trình bày vợ chồng tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử; giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị P và anh Nguyễn Văn L đăng ký kết hôn với nhau ngày 02/10/2000 tại UBND xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 13 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng thiếu tin tưởng nhau về kinh tế gia đình, dẫn đến gây gổ, xúc phạm nhau nhiều lần làm cho tình cảm vợ chồng ngày một rạn nứt. Chị P cũng đã cố gắng bỏ qua để xây dựng hạnh phúc; gia đình và bạn bè hai bên cũng đã vận động, góp ý và mong rằng giữa anh L và chị P có sự thay đổi trong suy nghĩ để cải thiện quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả mà tình trạng vợ chồng ngày càng căng thẳng hơn nên chị đã sống ly thân từ đầu năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai nữa. Chị P xác định tình cảm vợ chồng hiện tại thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh L.

Anh Nguyễn Văn L đã được Tòa án thông báo các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, kể cả phiên tòa lần thứ hai được tống đạt hợp lệ nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh, chính quyền địa phương xã S cho biết anh Nguyễn Văn L có hộ khẩu thường trú và đang làm ăn sinh sống tại địa phương xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, chứng tỏ anh L đã nhận được các thông báo của Tòa án nhưng cố tình không chấp hành các thông báo, triệu tập của Tòa án, không quan tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị P nữa.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị P, anh L có hai con chung: Con đầu đã trưởng thành chị P không yêu cầu giải quyết; con thứ hai Nguyễn Minh P, sinh ngày 18/5/2009, Hội đồng xét xử nhận thấy từ khi vợ chồng ly thân nhau đến nay con vẫn ở với chị P nên cần chấp nhận yêu cầu của chị P giao cho chị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, không buộc anh L cấp dưỡng nuôi con vì chị P đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không yêu cầu là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của con.

[2.3].Tài sản chung: Chị P không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4].Về án phí: Chị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Hoàng Thị P và anh Nguyễn Văn L được ly hôn nhau.

2.Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Hoàng Thị P được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Minh P, sinh ngày 18/5/2009. Anh Nguyễn Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị P đủ khả năng, điều kiện nuôi con và không yêu cầu. Anh Nguyễn Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005787 ngày 27/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị P đã nộp đủ án phí.

Chị P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/10/2019; anh L được kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HNGĐ-ST ngày 07/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về