Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 40/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 10 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 101/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/9/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị B, sinh năm: 1976; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1970; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/6/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Võ Thị B trình bày:

- Về hôn nhân: Bà B và ông C chung sống năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B. Sau khi kết hôn xong vợ chồng chung sống ở khu phố A một thời gian sau đó vợ chồng chuyển về sinh sống tại ấp A, xã B cho đến nay. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẩn, thường xuyên cải nhau, vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống gia đình không hạnh phúc; mặc dù cha mẹ hai bên có khuyên răn nhưng vợ chồng vẫn xãy ra mâu thuẩn trầm trọng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn không thể chung sống với nhau được nữa nên bà B xin ly hôn với ông C.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Thùy D, giới tính nữ, sinh ngày 11/9/2000 và Nguyễn Thị Phương D, giới tính nữ, sinh ngày 05/10/2004; hai con hiện đang sống chung với bà B. Nay ly hôn bà B yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Nguyễn Văn C để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà B cũng như tham gia các phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông C không nộp bản tự khai cho Tòa án, cố tình trốn tránh, vắng mặt không rõ lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đúng tư cách tham gia tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiến hành thu thập chứng cứ đúng trình tự, thủ tục. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định; tuy nhiên bị đơn vi phạm những quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt tại phiên tòa không lý do mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông C là đúng quy định. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà B được ly hôn với ông C. Về con chung, đề nghị giao hai cháu Nguyễn Thị Thùy D, giới tính nữ, sinh ngày 11/9/2000 và Nguyễn Thị Phương D, giới tính nữ, sinh ngày 05/10/2004 cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con do bà B không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của ông C không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông C.

Nguyên đơn bà B yêu cầu ly hôn với bị đơn ông C và có yêu cầu nuôi con chung. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận thụ lý giải quyết là phù hợp.

Do Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ nên đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định tại Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nội dung vụ án:

 [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà B và ông C xác lập quan hệ hôn nhân năm 1999, ông bà có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp.

Tuy  nhiên, trong quá trình chung sống ông bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, gia đình hai bên và chính quyền địa phương đã can thiệp hòa giải nhưng vẫn không thể hàn gắn và ông bà đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay bà B cương quyết yêu cầu ly hôn nhưng ông C không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có văn bản thể hiện ý kiến gì để Tòa án xem xét, cố tình vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, ông bà đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẩn giữa vợ chồng ông bà đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt đươc. Do đó áp dụng Điều 56 (Ly hôn theo yêu cầu của một bên) của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà B được ly hôn với ông C.

[2.2] Về con chung: Theo lời trình bày của bà B và theo giấy khai sinh có cơ sở xác định trong thời gian chung sống, ông C và bà B có 02 người con chung tên Nguyễn Thị Thùy D, giới tính nữ, sinh ngày 11/9/2000 và Nguyễn Thị Phương D, giới tính nữ, sinh ngày 05/10/2004; hiện hai con đang sống chung với bà B, bà B yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy từ khi vợ chồng ly thân đến nay bà B là người trực tiếp nuôi con, cuộc sống của hai con được đảm bảo, có chính quyền địa phương xác nhận nên bà B đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81 (quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn) của Luật hôn nhân và gia đình 2014, giao hai cháu Nguyễn Thị Thùy D, giới tính nữ, sinh ngày 11/9/2000 và Nguyễn Thị Phương D, giới tính nữ, sinh ngày 05/10/2004 cho bà B trực tiếp nuôi dưỡng điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của hai cháu. Ông C được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn: Bà B không có yêu cầu cấp dưỡng nuôicon nên Hội đồng xét xử  không xem xét.

 [2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà B xác định trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung. Bà B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3]  Về án phí sơ thẩm: Căn cứ  Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.  Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ, nguyên đơn bà Võ Thị B chịu toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 Tuyên xử:

1 - Về hôn nhân: Bà Võ Thị B được ly hôn với anh ông Nguyễn Văn C.

2 - Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thùy D, giới tính nữ, sinh ngày 11/9/2000 và cháu Nguyễn Thị Phương D, giới tính nữ, sinh ngày 05/10/2004 cho bà Võ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng (cháu Thùy D và Phương D hiện đang chung sống với bà B), ông C không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông C được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản (Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật).

3 - Về tài sản chung và nợ chung: Bà B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4 - Án phí ly hôn sơ thẩm: Bà Võ Thị B chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0005628 ngày 20/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận.

5 - Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/10/2018); bị đơn ông Nguyễn Văn C vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về