Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự, thụ lý số: 74/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Vũ Đức C, sinh năm 1978.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1984

Đều trú tại: thôn Đ, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

( Anh C có đơn xin vắng mặt, chị Th vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn anh Vũ Đức C có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Th tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 30/01/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình bố mẹ đẻ anh ở thôn Đ, xã Q, vợ chồng sống với nhau hòa thuận, đến năm 2008 thì luôn phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng không có tiếng nói chung, sau khi mâu thuẫn xảy ra đã được gia đình và Đoàn thể xã hội khuyên giải nhưng vẫn không hòa hợp được. Từ năm 2009 đến nay thì vợ chồng sống ly thân. Đến nay vợ chồng không còn tình cảm với nhau, không thể chung sống với nhau được nữa, nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Th.

- Về quan hệ con chung: Anh và chị Th có 02 con chung là Vũ Thành T - sinh ngày 29/7/2006 và Vũ Khánh H - sinh ngày 13/8/2008. Hiện nay cả hai cháu đang ở cùng với chị Th và ông bà nội cháu. Ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 02 con, không yêu cầu chị Th cấp dưỡng cho con. Nếu chị Th không đồng ý thì anh xin được nuôi con Vũ Khánh H còn chị Th sẽ nuôi dưỡng con Vũ Thành T, cả hai không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau, nếu chị Th muốn nuôi cả hai con thì anh đồng ý và tự nguyện cấp dưỡng là 1.000.000 đồng/ con/ tháng.

- Về quan hệ tài sản: Anh C khai vợ chồng anh chị không có tài sản chung và nợ chung.

* Bị đơn là chị Nguyễn Thị Th không lên Tòa án làm việc, chị có ý kiến trình bày bằng văn bản là chị không đồng ý ly hôn cũng như không nhận các văn bản của Tòa án.

* Kết quả Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ:

- Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q ngày 11/7/2018: Anh C và chị Th có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q vào ngày 30/01/2003, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau kết hôn, anh chị chung sống trong miền Nam một thời gian rồi về xã Q sinh sống. Anh C làm nghề lái xe, thường xuyên không ở nhà, chị Th hiện nay đang làm công nhân may ở Thái Bình. Do anh C thường xuyên không ở nhà nên mâu thuẫn cụ thể địa phương không nắm được. Anh chị có hai con chung là Vũ Thành T - sinh ngày 29/7/2006 và Vũ Khánh H - sinh ngày 13/8/2008. Hiện nay cả hai cháu đang ở với chị Th và bố mẹ anh C tại gia đình anh C tại thôn Đ, xã Q. Anh C và chị Th không có tài sản chung, nợ chung, không vay nợ các quỹ tín dụng ở địa phương.

- Tòa án lấy lời khai bà Trần Thị L là mẹ anh C được cung cấp: Anh C và chị Th kết hôn tại địa phương rồi chung sống ở miền Nam đến khi cháu thứ nhất được hơn một tuổi thì anh chị về nhà bà sinh sống. Bà thấy anh C nói rằng do tính tình hai vợ chồng không hợp nhau nên phát sinh mâu thuẫn nên muốn ly hôn để giải thoát cho chị Th. Anh C vẫn thường xuyên về nhà và phụ giúp bà về kinh tế để nuôi hai cháu, còn chị Th chưa bao giờ đưa tiền cho bà, chỉ có gần đây đóng học cho hai con, còn trước đó là anh C đóng. Bà cho rằng chị Th bận rộn và không đủ kinh tế để nuôi cả hai con. Anh C và chị Th không có tài sản chung cũng như không có chung tài sản gì với gia đình bà. Anh C có ruộng còn chị Th không có, hiện nay gia đình bà đang quản lý sử dụng ruộng của anh C.

- Tòa án lấy lời khai của hai cháu Vũ Thành T và Vũ Khánh H, cả hai cháu đều muốn ở với ông bà nội và bố mẹ phải gửi tiền về để ông bà nuôi hai

cháu.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn từ bỏ quyền, không thực hiện hết nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh C được ly hôn với chị Th; Về con chung: nên giao cho anh C trực tiếp nuôi con Vũ Khánh H, chị Th nuôi con Vũ Thành T; Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; Về án phí anh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Bị đơn là chị Nguyễn Thị Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, sau khi Tòa án thụ lý vụ án chị Th ở địa phương nhưng không đến Tòa án làm việc, chị Th từ chối nhận các văn bản của Tòa án và chỉ ghi vào đằng sau các văn bản đó là chị không đồng ý ly hôn. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Ngày 16/8/2018 anh C có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2. Tại phiên tòa hôm nay chị Th vắng mặt là lần thứ 2. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh C và chị Th là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án chỉ có nguyên đơn và bị đơn, họ đều vắng mặt nên phiên tòa được tiến hành theo thủ tục quy định tại điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tạiUBND xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình và lấy lời khai của mẹ đẻ anh C để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của bị  đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của anh C và chị Th có chứng nhận kết hôn nên đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng tuy đã sống với nhau thời gian dài nhưng không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau, chị Th tuy không muốn ly hôn nhưng không có biện pháp gì để thuyết phục anh C trở lại đoàn tụ, mặt khác lại không phối hợp để Tòa án hòa giải đoàn tụ, vợ chồng ly thân từ năm 2009, cả hai vợ chồng đều không quan tâm đến nhau. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa vợ chồng anh C và chị Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho anh C được ly hôn với chị Th là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung: Anh C và chị Th có 02 con chung là Vũ Thành T sinh ngày 29/7/2006 và Vũ Khánh H sinh ngày 13/8/2008, ly hôn nên giao con Vũ Thành T cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Vũ Khánh H cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng cho con cho nhau.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh C khai không có tài sản chung, không có nợ chung, chị Th không có ý kiến gì nên Tòa án không đặt ra giải  quyết.

[4] Về án phí: Anh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy  định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Vũ Đức C được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th.

2. Về con chung:

Anh Vũ Đức C và chị Nguyễn Thị Th có 02 con chung là Vũ Thành T sinh ngày 29/7/2006 và Vũ Khánh H sinh ngày 13/8/2008. Giao con Vũ Thành T cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Vũ Khánh H cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, cả hai không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Anh C, chị Th đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Anh Vũ Đức C phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm anh C đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001023 ngày 25/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Anh C đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh C và chị Th vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:40/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về