Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 40/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2018/TLST-HNGĐ ngày16 tháng 01 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thu X, sinh năm: 1985, địa chỉ: Ấp C, xã T L T, huyện G T, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm: 1990, địa chỉ: Ấp C, xã T L T, huyện G T, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị X có mặt, anh L vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/01/2018, bản tự khai và tại phiên tòa,nguyên đơn là chị Lê Thị Thu X trình bày:

Chị và anh Trần Văn L tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức cưới hỏi, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T L T, huyện G T, tỉnh Bến Tre vào năm 2013. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh L thường xuyên tham gia chơi bời, cờ bạc và không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm đến vợ con, chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh L không thay đổi. Chị và anh L đã không sống chung với nhau từ tháng 7 năm 2017 đến nay, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn được nên chị xin được ly hôn với anh L.

Trong thời gian chung sống, chị và anh L có 01 con chung tên là Trần Lê Mộc Anh, sinh ngày 05 tháng 8 năm 2015 đang sống chung với chị bên gia đình chị. Chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con. Chị không tranh chấp tài sản chung, chị và anh L không có nợ chung.

Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh L vẫn vắng mặt.

Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

Anh Trần Văn L là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh L.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Thu X và anh Trần Văn L chung sống có đăng ký kết hôn năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã T L T, huyện G T, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của chị X và anh L được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị X cho rằng chị và anh L có mâu thuẫn do anh không quan tâm, không có trách nhiệm với gia đình, chị và anh L cũng đã không sống chung với nhau từ tháng 7 năm 2017 đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị xin ly hôn với anh L.

Qua ý kiến trình bày của người thân trong gia đình anh L được biết: Chị X và anh L hay cãi nhau, chị X đã về nhà cha mẹ ruột của chị sống từ cuối năm 2017 đến nay.

Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị X và anh L đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị X để giải quyết cho chị X được ly hôn với anh L.

[3] Về con chung: Chị X khai chị và anh L có 01 con chung tên là Trần Lê Mộc Anh, sinh ngày 05 tháng 8 năm 2015 đang sống chung với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con.

Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị X và anh L không sống chung với nhau thì con chung do chị X nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống của con chung thì cần giao con chung cho chị X tiếp tục nuôi dưỡng.

Theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” nhưng chị X không có yêu cầu anh L cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị X không tranh chấp tài sản chung, chị X khai chị và anh L không có nợ chung nên ghi nhận.

 [5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị X phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0013871 ngày 16 tháng 01 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Chị X đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thu X. Chị LêThị Thu X được ly hôn với anh Trần Văn L.

Về con chung: Chị Lê Thị Thu X được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên làTrần Lê Mộc Anh, sinh ngày 05 tháng 8 năm 2015.

Ghi nhận chị Lê Thị Thu X không yêu cầu anh Trần Văn L cấp dưỡng chocon.

Anh Trần Văn L được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở anh thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết địnhthay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung:

Chị Lê Thị Thu X không tranh chấp tài sản chung. Chị Lê Thị Thu X khai chị và anh Trần Văn L không có nợ chung.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Lê Thị Thu X phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0013871 ngày 16 tháng 01 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyệnGiồng Trôm. Chị Lê Thị Thu X đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2018/HNGĐ-ST ngày 03/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:40/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về