Bản án 40/2017/HSST ngày 24/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẬP- TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 24/10/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/10/2017, tại trường Trung học phổ thông Yên Lập huyện Yên Lập,tỉnh Phú Thọ. xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2017/HSST, ngày 10/10/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2017/QĐXX-ST ngày 10/10/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý A L - sinh năm 1971 tại xã Sơn Thịnh huyện Văn Trấn tỉnh Yên Bái; cư trú tại: Khu Nhồi xã Trung Sơn, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ; tên gọi khác: không; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 1/12; con ông Lý A D, con bà Hạc Thị D (Đều đã chết), vợ là Mùa Thị D - Sinh năm 1971, bị cáo có 07 người con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền sự, tiền án: Không; bị bắt tạm giam ngày 02/7/2017, tạm giam tại Công an huyện Yên Lập đến nay; danh chỉ bản số 055 do Công an tỉnh Phú Thọ lập ngày 04/7/2017 - Bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lý A L : Bà Phạm Thị Thắm – Trợ giúp viên pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ. – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản cáo trạng số 38/KSĐT-TA, ngày 10/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ đã quyết định truy tố bị cáo Lý A L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự với các tình tiết phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 01 tháng 7 năm 2017 tại đoạn đường quốc lộ 70, đoạn thuộc khu trung tâm xxa Lương Sơn, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, Lâu đã nhận của Nguyễn Đăng C số tiền 700.000đ và bán cho Chiến 03 gói thuốc phiện được L đúc trong ống nứa, việc bán ma túy cho C được L thực hiện xong thì bị Công an huyện Yên Lập phát hiện và kiểm tra thu giữ các vật chứng: Thu trên tay chiến 01 ông nứa bên trong có 03 gói ni lon có chất màu đen, thu giữ trên tay L 700.000đ; Qúa trình điều tra L khai báo nguồn gốc số thuốc phiện L mua của một người phụ nữ không rõ tên tuổi ở chợ Trung Sơn ngày 23 tháng 6 năm 2017, cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được người bán thuốc phiện cho L.

Tại bản kết luận giám định số 1299/KLGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Mẫu vật gửi đến giám định là thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, khối lượng 0,836gam

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay Lý A L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của Lý A L phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử :

Tuyên bố bị cáo Lý A L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: khoản 1 điều 194, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lý A L từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giam là ngày 02 tháng 7 năm 2017.

Về vật chứng:

Áp dụng điểm b khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự; Khoản 1 điểm a,c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 700.000đ; Tịch thu để tiêu hủy số thuốc phiện còn lại sau giám định và toàn bộ báo gói, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 10 năm 2017.

Bị cáo Lý A L không tranh luận và nói lời nói sau cùng: Bị cáo ân hận về hành vi bán chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tại phiên tòa hôm nay trợ giúp viên pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Lý A L có quan điểm: Bị cáo L sinh sống ở vùng điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, bị cáo là người dân tộc thiểu số (Dân tộc H’ Mông) ít có điều kiện tiếp thu kiến thức pháp luật nên bị cáo đã phạm tội, tại phiên tòa hôm nay bị cáo vẫn thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của Pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo sớm thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

1. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Về căn cứ buộc tội:

Lời khai của bị cáo Lý A L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ cơ sở để kết luận: Nhằm mục đích thu lời bất chính Lý A L đã mua thuốc phiện của một người không quen biết với số tiền 600.000đ rồi bán cho Nguyễn Đăng C với số tiền 700.000đ., thu lời bất chính 100.000đ; Hành vi nêu trên của bị cáo Lý A L đã đủ các yếu tố cấu thành tội“Mua bán trái phép chất ma túy ” theo quy định tại khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự. Do vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lập đối với bị cáo Lý A L là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

3. Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con n gười và sự phát triển giống nòi của dân tộc, hành vi phạm tội của bị cáo còn làm lây lan tệ nạn nghiện ma túy, lây lan dịch bệnh, hành vi đó đã gây bất bình trong quần chúng nhân dân và còn lànguyên nhân gây ra các hành vi vi phạm pháp luật khác, vì vậy c ần phải được xử lý nghiêm để giáo dục bị cáo và làm gương cho người khác.

4. Về nhân thân: Bị cáo Lý A L chỉ học hết lớp 1, sinh sống ở cùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, nhận thức xã hội nói chung và nhận thức về pháp luật nói riêng còn hạn chế; Bị cáo L đã coi thường pháp luật, L đã mua ma túy để bán thu lời bất chính, hành vi đó đã cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy, vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi đã gây ra, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gi an để bị cáo có thời gian rèn luyện tu dưỡng trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

5. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo một phần vì bị cáođược hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là sau khi phạmtội thành khẩn khai báo ăn năn hối cải được quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự và bị cáo cũng được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự đó là bị cá o là người dân tộc thiểu số (H’Mông) , trình độ văn hóa thấp 1/12, sinh sống ở vùng kinh tến xã hội khó khăn ; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Luật sư bào chữa cho bị cáo L nêu ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, trên cơ sở thể hiện sự nghiêm minh và sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo; Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định của Pháp luật nên được Hội đồng xétxử chấp nhận, tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần lên một mức án đủ để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

6. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tàisản…Như vậy lẽ ra c òn phải áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình phạttiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với các bị cáo, nhưng do bị cáo không có tài sản, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt phạt bổ sung bằng hình phạt tiền đối với bị cáo.

7. Về vật chứng: Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp được chấp nhận, bởi lẽ: Số tiền 700.000đ là tiền do phạm tội mà có, các vật chứng khác liên quan đến tội phạm nay không còn giá trị nên cần tịch thu để tiêu hủy.

8. Về án phí: Bị cáo Lý A L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Lý A L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng khoản 1 điều 194 điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lý A Lâu.

Phạt bị cáo: Lý A L 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 02 tháng 7 năm 2017.

2- Về vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự; Khoản 1 điểm a,c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 700.000đ (Bẩy trăm nghìn đồng).

+ Tịch thu để tiêu hủy:

- 0,744 gam chất dẻo màu nâu đen là mẫu vật còn lại sau khi giám định, cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong trong 01 bì giấy có đóng dấu của phòng kỹ thuật thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ trên các mép dán.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng đến chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ ngày 10 tháng 10 năm 2017.

3- Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lý A L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HSST ngày 24/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về