Bản án 40/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 14/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2017 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2017/HSST ngày 03/4/2017 đối với các bị cáo:

1- Họ và tên: Phạm Quốc D - Tên gọi khác: Cu Sinh năm: 1996 - Nơi sinh: Bến Tre.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 2, xã Đ, huyện M, Lâm Đồng. Trình độ văn hóa: 6/12 - Nghề nghiệp: làm nông.

Con ông: Phạm Hữu Tr - Sinh năm: 1968

Con bà: Nguyễn Thị C - Sinh năm: 1968

Vợ: Ngô Thị Mỹ L1 - Sinh năm: 1998

Con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không. Quá trình nhân thân:

- Ngày 22/6/2017 Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận xử phạt 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 06/12/2016 về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 11/2017/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/12/2016 cho đến nay. Có mặt.

2- Họ và tên: Trương Quang Hoài L - Tên gọi khác: không

Sinh năm: 1995 - Nơi sinh: Lâm Đồng

Nơi ĐKNKTT: Thôn 2, xã Q, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông.

Chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, thị trấn ĐR, Huyện M, Lâm Đồng.

Trình độ văn hóa: 6/12 - Nghề nghiệp: làm vườn

Con ông: Trương Quang H - Sinh năm: 1961

Con bà: Trịnh Thị S - Sinh năm: 1963

Vợ con: chưa có

Tiền án, tiền sự: không. Quá trình nhân thân:

- Ngày 27/3/2017 Tòa án nhân dân huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 02/12/2016 về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 13/2017/HSST.

- Ngày 22/6/2017 Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận xử phạt 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 02/12/2016 về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 11/2017/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/12/2016 cho đến nay. Có mặt.

* Người bị hại:

Anh Phạm Văn Th sinh năm: 1991

Trú tại: Thôn 5, xã X, huyện B, Lâm Đồng. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Thị Kim Ph sinh năm: 1981

Trú tại: Tổ 9, Khu phố 3, Thị trấn Z, huyện ĐL, Bình Thuận. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Vào khoảng 9h00 ngày 11/11/2016 Phạm Quốc D chở Trương Quang Hoài L trên xe

máy Exciter 150cc (không rõ biển số, xe này mới lấy trộm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trước đó) đi từ dưới huyện M qua địa bàn huyện B để đi về huyện R, tỉnh Bình Thuận. Khi chạy xe lên hết đèo thuộc Thôn 5, xã X, huyện B thì cả hai phát hiện một chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 86B3-227.96 của anh Phạm Văn Th đang dựng tại hiên nhà ông Mai Văn H1 nên đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe này bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, D chở L chạy qua một đoạn để quan sát rồi quay lại dừng xe máy cách chiếc xe khoảng 10 mét. Lúc này L đưa cho D một đoản vam bẻ khóa xe máy rồi D đi bộ đến chỗ chiếc xe máy dùng vam mở ổ khóa xong đi bộ ra chỗ L đợi nói “Bẻ khóa xong rồi, vào dắt xe ra đi” nên L liền đi bộ vào chỗ để xe máy, quan sát không thấy có người nên dắt xe máy ra ngoài đường, khởi động máy và chạy về thẳng hướng huyện R, tỉnh Bình Thuận, còn D chạy xe Exciter phía sau. Trên đường về Bình Thuận D điện thoại liên lạc với chị Nguyễn Thị Kim Ph là chủ quán cà phê Thanh Trâm ở thị trấn Z, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận nói có một chiếc xe máy của người em chưa có giấy tờ, chị Ph có mua không? thì Ph nói cứ chạy xe máy xuống để xem. Sau đó D và L điều khiển xe máy đến quán cà phê của chị Ph thỏa thuận bán với giá 4.000.000đ; sau đó do chị Ph không đủ tiền nên đã đưa trước cho L 2.000.000đ và hẹn ít ngày sau trả số tiền còn lại. Sau đó cả hai sử dụng số tiền này trả tiền nợ chung và chi xài cá nhân. Khoảng một tuần sau, L cùng một người bạn tên Đại (không rõ nhân thân lai lịch) đến gặp chị Ph hỏi số tiền mua xe còn thiếu lại thì chị Ph chưa đủ tiền nên đã đưa thêm cho L 500.000đ, sau đó L và người bạn đi về. Sau khi mua được xe chị Ph sử dụng và không thấy D và L quay lại nên đã bán lại chiếc xe máy nói trên cho một người đàn ông tên Hoàng (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 3.500.000đ tại thị trấn Trị An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Sau khi được Cơ quan CSĐT Công an huyện B giải thích chiếc xe máy chị Ph mua là do D và L trộm cắp được đem bán nên chị Ph đã liên lạc với anh Hoàng nói trên chuộc lại xe máy và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Công an thị trấn Z, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận. Sau đó Cơ quan CSĐT công an huyện B đã nhận bàn giao chiếc xe máy nói trên về để điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy biển số 86B3-227.96 là của anh Phạm Văn Th, trú tại thôn U, xã Y, huyện R, tỉnh Bình Thuận. Ngày 11/11/2016 anh Th có để xe tại nhà ông H1 rồi về tiệm cửa sắt của mình cách đó khoảng 35m, đến khoảng 11h cùng ngày phát hiện mất xe nên đã làm đơn trình báo cho Công an xã X, huyện B.

Theo kết luận định giá tài sản số 02 ngày 05/01/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận trị giá chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius biển số 86B3-227.96 có giá trị 11.500.000đ.

Tại bản cáo trạng số 12/CT- VKS ngày 27 tháng 3 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo; Đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138 và điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo Phạm Quốc D từ 12 tháng đến 15 tháng tù; xử phạt bị cáo Trương Quang Hoài L từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Áp dụng Điều 51, Điều 50 BLHS đề nghị tổng hợp hình phạt với bản án số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo Phạm Quốc D và bị cáo Trương Quang Hoài L không có ý kiến tranh luận. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng 9h00 ngày 11/11/2016 Phạm Quốc D chở Trương Quang Hoài L trên xe máy Exciter 150cc (không rõ biển số, xe này mới lấy trộm trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trước đó) đi từ dưới huyện M qua địa bàn huyện B để đi về huyện R, tỉnh Bình Thuận. Khi chạy xe lên hết đèo thuộc Thôn 5, xã X, huyện B thì cả hai phát hiện một chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 86B3-227.96 của anh Phạm Văn Th đang dựng tại hiên nhà ông Mai Văn H1 nên đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe này. Lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu nên D và L đã thực hiện hành vi lén lút và đã chiếm đoạt được chiếc xe trên và bán lấy tiền tiêu xài. Theo kết luận định giá thì chiếc xe máy trên có giá trị là 11.500.000đ.

Hành vi của các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L đã đủ yếu tố cấu Th tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Vì vậy, Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố đối với các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp.

Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác; gây bất bình, hoang mang trong quần chúng nhân dân; gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm minh theo quy định của pháp luật hình sự để răn đe, cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét thấy: Trong thời gian từ tháng 9/2016 đến tháng 12/2016, bị cáo D và bị cáo L đã liên tục thực hiện 07 hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật ở nhiều địa phương khác nhau. Mỗi lần thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo đều đủ yếu tố cấu Th tội “Trộm cắp tài sản” một cách độc lập. Tuy nhiên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017, khi quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các bị cáo. Vì vậy, khi xử lý về hành vi này thì không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự này là phù hợp.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã Th khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy rằng: Các bị cáo không có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng mà cả hai cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương đương nhau là phù hợp.

Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo Phạm Quốc D đang chấp hành hình phạt 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 06/12/2016 về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận. Do đó, cần tổng hợp hình phạt để buộc bị cáo Phạm Quốc D phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 50 Bộ luật hình sự. Do Phạm Quốc D đang chấp hành án liên tục từ ngày 06/12/2016 cho đến nay, không bị gián đoạn. Cho nên, sau khi tổng hợp hình phạt đối với hai bản án, thời hạn tù sẽ được tính từ ngày 06/12/2016 thì đã khấu trừ thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước cho bị cáo Phạm Quốc D.

Bị cáo Trương Quang Hoài L đang chấp hành hình phạt 03 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam 02/12/2016 về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận. Do đó, cần tổng hợp hình phạt để buộc bị cáo Trương Quang Hoài L phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 50 Bộ luật hình sự. Do Trương Quang Hoài L đang chấp hành án liên tục từ ngày 02/12/2016 cho đến nay, không bị gián đoạn. Cho nên, sau khi tổng hợp hình phạt đối với hai bản án, thời hạn tù sẽ được tính từ ngày 02/12/2016 thì đã khấu trừ thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước cho bị cáo Trương Quang Hoài L.

Về tang vật: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an huyện B đã tạm giữ xe máy hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 86B3-227.96. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm Văn Th. Tại phiên tòa hôm nay, anh Th vắng mặt nhưng lời khai trong hồ sơ thể hiện anh Th không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đề cập đến.

Đối với người liên quan là chị Nguyễn Thị Kim Ph trong quá trình điều tra chị Ph không yêu cầu các bị cáo pH trả lại số tiền 2.500.000đ nên HĐXX không đề cập đến. Tuy nhiên, cần buộc các bị cáo pH liên đới nộp lại số tiền 2.500.000đ, chia theo phần buộc bị cáo D, L mỗi bị cáo phải nộp 1.250.000đ để sung vào công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Phạm Quốc D 12 (mười hai) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 50 BLHS: Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đang chấp hành theo bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận. Buộc bị cáo Phạm Quốc D phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/12/2016.

Xử phạt bị cáo Trương Quang Hoài L 12 (mười hai) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 50 BLHS: Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 03 (ba) năm 09 (C) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đang chấp hành theo bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bình Thuận. Buộc bị cáo Trương Quang Hoài L phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 04 (bốn) năm 09 (C) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/12/2016.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an huyện B đã tạm giữ xe máy hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen biển số 86B3-227.96. Hiện đã trả lại cho anh Phạm Văn Th, anh Th không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đề cập đến.

Đối với người liên quan là chị Nguyễn Thị Kim Ph trong quá trình điều tra chị Ph không yêu cầu các bị cáo phải trả lại số tiền 2.500.000đ nên HĐXX không đề cập đến.

Buộc các bị cáo D, L phải liên đới nộp lại số tiền 2.500.000đ, chia theo phần buộc bị cáo D, L mỗi bị cáo phải nộp 1.250.000đ để sung vào công quỹ Nhà nước.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” buộc các bị cáo Phạm Quốc D, Trương Quang Hoài L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (14/9/2017); Đối với người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:40/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về