Bản án 40/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 14/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 7 năm 2017, tại Nhà văn hóa thôn Phú Hưng, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2017/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Tấn Đ, sinh năm 1997, tại Bình Phước;HKTT: Ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông Hoàng Anh D – SN: 1979 và bà Hoàng Thị L – SN: 1978; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2017 đến nay, “có mặt”.

* Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Lê Thị L, sinh năm 1960 - Văn phòng luật sư Vinh và Tình thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Phước.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

Vũ Thị T, sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã B, huyện P, tỉnh Bình Phước.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Tấn Đ có quen biết với một người tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) từ  trước. Khoảng 10 giờ,  ngày  01/03/2017, T nhắn cho Đ số điện  thoại 01679.241.563 của Vũ Thị  T để Đ liên lạc và bán ma túy. Đ dùng điện thoại có gắn sim số 01646.100.299 gọi vào số điện thoại của Vũ Thị T, Vũ Thị T hỏi mua “một góc tám ma túy đá”. Sau đó, Đ gọi điện lại cho T hỏi giá 1 góc 8 ma túy đá là bao nhiêu, T nói giá 1.000.000đ nên Đ gọi điện thoại nói cho Vũ Thị T biết, Vũ Thị T đồng ý mua và hẹn gặp Đ tại khu vực xã L, huyện P để nhận ma túy. Đ gọi điện thoại cho T để lấy ma túy. T chỉ chỗ cho Đ biết ma túy bỏ trong gói thuốc hiệu Hòa Bình để ở lề đường gần sân bóng đá mini Q, thuộc xã M, huyện H, tỉnh Bình Phước. Đ đi bộ đến và lấy được một vỏ thuốc lá bên trong chứa một đoạn băng keo hai mặt màu trắng dính bao quanh một bịch nylon chứa chất ma túy. Lúc này, Đ gặp một người bạn tên L đang đi xe máy trên đường nên Đ nhờ L chở đến xã L, huyện P, trên đường đi Đ lấy bịch ma túy đá ra cầm trên tay và ném bỏ vỏ gói thuốc hiệu Hòa Bình đi. Khi đến địa điểm giao ma túy thì L dừng xe cho Đ xuống đi bộ, còn L điều khiển xe mô tô chạy đi trước. Khi Đ chuẩn bị giao ma túy cho Vũ Thị T thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 bịch nylon hàn kín ba mặt có kích thước (2x5,5)cm bên trong chứa các tinh thể màu trắng mà Đ khai nhận là ma túy đá, bên ngoài bịch nyon được dán bằng một đoạn băng keo hai mặt màu trắng có kích thước (2,5x7)cm; 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Sam sung Duos màu trắng có gắn sim điện thoại số 01646100299 và 01 điện thoại di động cảm ứng hiệu Sam sung Duos màu trắng viền đen có gắn sim 01679241563.

Tại bản Kết luận giám định bổ sung số: 123/MT-PC54, ngày 07/03/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định có Methaphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghi Định 82 ngày 19/07/2013 của chính phủ có hàm lượng 71,04%. Trọng lượng Methamphetamine trong 0,5308 gam mẫu là 0,3771 gam.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Hoàng Tấn Đ khai nhận có quen biết với đối tượng tên T và được T cho bị cáo sử dụng chất ma túy. Khoảng 10 giờ, ngày 01/03/2017, T giao ma túy cho Đ mang ma túy đi bán Vũ Thị T. Số lượng ma túy mua bán là “một góc tám ma túy đá”(đơn vị tính của các đối tượng nghiện) với giá 1.000.000đ. Sau khi nhận ma túy, Đ gặp và đi nhờ xe một người bạn tên L đi đến xã L, huyện P để bán ma túy cho Vũ Thị T. Khi Đ đang chuẩn bị giao ma túy cho Vũ Thị T thì bị phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Đ biết hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì T đã cho sử dụng ma túy nên bị cáo đồng ý đi bán giúp ma túy cho T.

Tại Bản cáo trạng số 47/CTr-VKS ngày 26 tháng 6 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Hoàng Tấn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 45; Điều 33 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Tấn Đ mức án từ 02 năm đến 03 năm tù. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Tấn Đ thống nhất về tội danh đối với bị cáo như luận tội của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm tình tiết gia đình bị cáo có công với nước để giảm hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Tấn Đ khai nhận tội phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian và địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án, kết luận giám định chất ma túy thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã xác định được: Hoàng Tấn Đ là đối tượng nghiện ma túy và được T cho sử dụng ma túy. Khoảng 10 giờ, ngày 01/3/2017, T đã giao 01 gói ma túy để bị cáo Đ mang đi bán cho Vũ Thị T với giá 1000.000đ. Khi bị cáo Đ đến địa phận xã L, huyện P, tỉnh Bình Phước bán ma túy cho Vũ Thị T thì bị phát hiện bắt quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định có Methaphetamine là chất ma túy có hàm  lượng 71,04%.  Trọng lượng Methamphetamine trong 0,5308 gam mẫu là 0,3771 gam.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy gây ảnh hưởng rất xấu đối với sức khỏe con người, là nguyên nhân trực tiếp gây ra nhiều tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Nhưng vì lợi ích của bản thân, muốn có chất ma túy để sử dụng nên bất chấp sự nguy hiểm và sự trừng phạt của pháp luật, bị cáo vẫn thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy. Điều này còn thể hiện thái độ liều lĩnh, xem thường pháp luật của bị cáo rất cao.

Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cân phai xư phat bị cáo một mức hình phạt tù tương xứng để giáo dục, cải tạo bị cáo và cũng để phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị về tội danh, hình phạt, các tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng pháp luật là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận. Đối với đối tượng tên T là người cung cấp ma túy cho Đ và đối tượng tên L chở bị cáo Đ đi bán ma túy hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, CQĐT tiếp tục xác minh làm rõ xử lý theo quy định.

Đối với Vũ Thị T qua làm việc T khai nhận mua ma túy để sử dụng do đó không có cơ sở để xử lý hình sự. Đề nghị Cơ quan CSĐT xử lý hành chính theo quy định.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 0.3984 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại Samsung Duos màu trắng đã qua sử dụng có gắn sim số 01646100299, Đ sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại Samsung Duos màu trắng viền đen đã qua sử dụng có gắn sim số 01679241563 là công cụ phương tiện sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Tấn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 45; Điều 33 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Tấn Đ 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2017.

Hình phạt bổ sung:  Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Tấn Đ.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 0.3984 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại Samsung Duos màu trắng đã qua sử dụng có gắn sim số 01646100299; 01 điện thoại Samsung Duos màu trắng viền đen đã qua sử dụng có gắn sim số 01679241563 theo Biên bản thu giữ vật chứng số 0000364 ngày 196/2017.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết về án phí, lệ phí. Buộc bị cáo Hoàng Tấn Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoăc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HSST ngày 14/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về