Bản án 40/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 40/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại Nhà văn hóa bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử lưu động công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2017/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2017/QĐXXST-HS, ngày 31/8/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn L–Sinh năm 1985, tại huyện Sốp Cộp, Sơn La;

Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; con ông  Tòng Văn M và bà  Vì Thị T; bị cáo có vợ là Lường Thị N và 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/4/2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lường Thị N

Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt, có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 10 phút, ngày 05/4/2017, tổ công  tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với  ban công an xã M, huyện Sốp Cộp làm nhiệm vụ tại khu vực bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang Tòng Văn L đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 18 viên nén màu hồng Lkhai là ma túy tổng hợp,   01 chiếc xe máy màu sơn đen, loại xe WIN nhãn hiệu DOMCOZX số khung: 174558, số máy: 174558, biển kiểm soát 26F1-00432. L đã bị bắt giữ dẫn giải đến Công an huyện Sốp Cộp tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngày 07/4/2017 tại Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong cân tịnh, lấy mẫu giám định. Kết quả cân tịnh 18 viên nén tổng hợp thu giữ của Lương có trọng lượng 1,715 gam, trích lấy 0,319 gam ký hiệu L1 làm mẫu giám định. Vật chứng còn lại 1,396 gam   ký hiệu L2 lưu kho vật chứng Công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số: 413/KLMT ngày 11/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine” Trọng lượng chất ma túy thu giữ là 1,175 gam loại chất Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn L khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 05/4/ 2017 L một mình đi xe máy từ nhà ở bản H, xã M đến bản C, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La với mục đích để đón bà Tòng Thị T (là cô của L) đang lấy măng ở đó. Khi đi đến khu vực bản C, xã M, L gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đi bộ ở đường. Người đàn ông đó đã chủ động đến làm quen và hỏi L “có biết ông Yên nhà ở bản N, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La không”, L trả lời “có biết ông Yên”. Người đàn ông đó nói “nếu biết ông Yên thì cầm gói ma túy đưa cho ông Yên đang ở gần nhà ông Hoan ở bản H, xã M, huyện Sốp Cộp”, người đàn ông đó đưa cho L một gói nilon màu xanh và nói với L “bên trong có  18 viên hồng phiến”. L nhận gói ma túy và nghĩ khi đưa gói ma túy cho ông Yên sẽ xin ông Yên 02 cái dao để phục vụ sinh hoạt gia đình. Sau khi nhận gói ma túy L giấu gói ma túy vào chiếc dép tổ ong bên phải L đang đi rồi điều khiển xe máy đi về hướng bản H, xã M, huyện Sốp Cộp. Khi L đến đầu bản H, xã M thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp phối hợp với công an xã M làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 30/KSĐTMT ngày 13 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Tòng Văn L về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”  theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu được trả lại chiếc xe máy vì cho rằng bị cáo L mang xe máy của gia đình thực hiện hành vi phạm tội gia đình không biết.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bầy lời luận tội, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội: Vận chuyển trái phép chất ma tuý; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 tuyên xử phạt bị cáo: Tòng Văn L từ 24 đến30  tháng tù; Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan  không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghia vụ liên quan xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Tòng Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ  1,175 gam loại Methamphetamine với mục đích để giao cho người khác và được hưởng lợi về vật chất (xin hai cái dao để phục vụ sinh hoạt gia đình), hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo vận chuyển  tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để  lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải dó đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo trước khi xét xử bị cáo không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Tuy nhiên để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với người đã trực tiếp nhờ bị cáo mang  ma túy cho người tên là Yên ở bản N, hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Đối với cho người tên là Yên  mà bị cáo khai được người đàn ông đàn tộc Mông nhờ mang gói ma túy đến cho Yên. Kết quả điều tra ở bản N, xã M, huyện Sốp Cộp có một người tên là Lường Văn Yên, cơ quan điều tra đã lấy lời khai của ông Yên, nhưng ông Yên không thừa nhận đã mua ma túy của ai. Ngày 05/4/2017 ông Yên đi lên nương bẫy thú rừng và không hẹn mua ma túy của ai. Ngoài lời khai của L ra không có căn cứ nào khác để chứng minh Lường Văn Yên liên quan đến vụ án nên không đặt vấn đề xử lý.

[8] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với chiếc xe máy màu sơn đen, loại xe WIN nhãn hiệu DOMCOZX; biển kiểm soát 26F1-00432 quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là ông Tòng Văn Dương có nơi cư trú tại Bản H, xã M, huyện Sốp Cộp nhưng khi cơ quan điều tra đi xác mịnh thì không có ai tên là Tòng Văn Dương cư trú ở bản H, xã M. Theo lời khai của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì chiếc xe là của gia đình bị cáo khi đi đăng ký xe tại cơ quan có thẩm quyền thì có sự nhầm lẫn tên Tòng Văn L thành Tòng Văn Dương. Do đó xác định đây là tài sản hợp pháp của gia đình bị cáo, việc bị cáo đã sử dụng chiếc xe máy này để làm phương tiện phạm tội gia đình không biết; Ngày 10/7/2017 Bà Lường Thị N là vợ của bị cáo có đơn xin lại tài sản do đó cần xem xét trả lại chiệc xe máy cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lường Thị N. Đối với 1,396 gam  ký hiệu L2  là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu để tiêu huỷ.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự; nhưng xét thấy tài sản của bị cáo không có gì nên không áp dụng  hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo: Tòng Văn L phạm tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy.

2.Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo: Tòng Văn L 27 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 05/4/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng: điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 41 BLHS, điểm a, b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ 1,396 gam Methamphetamin ký hiệu L2; Trả lại cho bà Lường Thị N chiếc xe máy màu sơn đen, loại xe WIN nhãn hiệu DOMCOZX; số khung: 174558,số máy:174558 biển kiểm soát 26F1-00432.Theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày14/7/2017 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 1 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Tòng Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm  là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 12/9/2017

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về