Bản án 40/2017/HNGĐ-ST ngày 20/06/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 40/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Vào ngày 20 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 249/2017/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2017 đối với vụ án Hôn nhân gia đình về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2017/QĐST-HNGĐ ngày 12/6/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn C sinh năm 1965; địa chỉ: Số 24/35, tổ 35, khu phố 5, phường Đ, thành phố T, tỉnh B. Vắng mặt nhưng ngày 25/5/2017 có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Trần Phương L, sinh năm 1976; địa chỉ: Số 24/35, tổ 35, khu phố 5, phường Đ, thành phố T, tỉnh B. Vắng mặt nhưng ngày 04/5/2017 có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 31/3/2017 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là ông Trần Văn C trình bày:

Ông Trần Văn C (sau đây gọi tắt là ông C) và bị đơn là bà Trần Phương L (sau đây gọi tắt là bà L), tự nguyện tìm hiểu và quyết định sống chung từ đầu năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông Chín bà L chuyển đến sinh sống, làm ăn tại phường Đ, thành phố T, tỉnh B. Sau khi cưới nhau, ông C, bà L chỉ thật sự hạnh phúc trong 02 năm đầu tiên, từ năm 2000 đến nay vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, bất hòa, vì thế cả hai quyết định chưa sinh con. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng trái ngược quan điểm sống, thường xuyên cải vã, xung đột mặc dù sống chung nhà. Từ năm 2000 đến nay, vợ chồng quyết định chia tay, sống ly thân nhau, mạnh ai nấy sống, người này không quan tâm đến người kia và ngược lại. Nhận thấy, cuộc sống chung vợ chồng không còn ý nghĩa, mục đích hôn nhân không đạt được, ông Trần Văn C nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn vợ là bà Trần Phương L. Khi ly hôn, do vợ chồng chưa có con chung nên ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết con chung, tài sản chung, nợ chung, vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 04/5/2017, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, bị đơn là bà Trần Phương L thống nhất lời trình bày của ông Trần Văn C về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Bà L xác định, sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến xô xát và hai người không thể ở chung nhà. Bà L xin đi làm và thường xuyên đi công tác tại xã Bình Hàng Tây, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, thỉnh thoảng mới về nơi cư trú của vợ chồng (phường Đ, thành phố T). Mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh nhiều năm không thể hàn gắn, tình cảm cả hai đã phai nhạt, hai người lại chưa có con chung nên bà L cũng thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Trần Văn C. Về tài sản chung, con chung: bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 04/5/2017, bà Trần Phương L gửi đơn đến Tòa án xin không hòa giải đoàn tụ và yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt bà L do bà thường xuyên đi công tác, không có điều kiện tham gia phiên tòa. Ngày 25/5/2017, ông Trần Văn C có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ông, đơn yêu cầu vắng mặt của ông Trần Văn C được Ủy ban nhân dân phường Đ xác nhận.

Do các đương sự trong vụ án đều có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt họ, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quyết định tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử thực hiện việc xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Kiểm sát viên không kiến nghị, khắc phục gì thêm.

Về nội dung: Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông C và bà L đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, đoàn tụ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Trần Văn C theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn là bà Trần Phương L có nơi cư trú tại phường Đ, thành phố T, mặc dù bà L thường xuyên đi công tác tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nhưng thỉnh thoảng vẫn về nơi cư trú tại phường Đ, thành phố T. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về tố tụng: Nguyên đơn ông Trần Văn C và bị đơn bà Trần Phương L (gọi tắt là ông C, bà L) đều có đơn xin xét xử vắng mặt do điều kiện công tác, làm việc không thể đến Tòa án tham gia tố tụng. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng được Hội đồng xét xử thực hiện theo đúng quy định tại Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: cả ông C, bà L đều thống nhất, vợ chồng sống chung có đăng ký kết hôn năm 1998 tại xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Hai người chỉ chung sống thời gian ngắn khoảng 02 năm và ly thân nhau từ năm 2000 đến nay, nguyên nhân do cả hai đều thừa nhận là không cùng quan điểm sống, thường xuyên bất hòa, cải vã nhau khi gặp mặt. Cả hai đều đề đạt nguyện vọng được Tòa án giải quyết ly hôn để trả tự do cho nhau. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa ông Trần Văn C và bà Trần Phương L đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được khi hai người bỏ mặc nhau, mạnh ai muốn sống ra sao thì sống, không ai quan tâm đến ai, do vậy việc ông Trần Văn C yêu cầu ly hôn bà Trần Phương L là có cơ sở để Tòa án chấp nhận.

[4] Về con chung: Các đương sự khai chưa con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật được chấp nhận toàn bộ.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Trần Văn C phải nộp toàn bộ án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 6 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 203, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, khoản 1 Điều 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 6 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C xin ly hôn đối với bà Trần Phương L.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn C được ly hôn bà Trần Phương L.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn Số 42 do Ủy ban nhân dân xã Lương Thế Trân, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau cấp ngày 01/8/1998 cho ông Trần Văn C và bà Trần Phương L không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình thẩm:

Ông Trần Văn C phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ hết vào số tiền ông C đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0000686 ngày 07/4/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Tất cả các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm nên thời hạn kháng cáo cho các đương sự là 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được Bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2017/HNGĐ-ST ngày 20/06/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:40/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về