Bản án 397/2020/HS-PT ngày 31/12/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 397/2020/HS-PT NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 349/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1975 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú (HKTT): Ấp Mỹ Đông B, xã Mỹ T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1949 (chết) và bà Lê Thị T1, sinh năm 1952 (sống); có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: Chưa; tạm giữ: Không; tạm giam: Ngày 03-7-2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại kháng cáo:

Nguyễn Văn D, sinh năm 1959 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Mỹ T2, xã Mỹ X, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1997 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Hòa D2, xã Nhị M, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

2. Nguyễn Minh H2, sinh năm 1983 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Mỹ Đông B, xã Mỹ T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

- Người làm chứng:

1. Lê Thị X, sinh năm 1940 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm Mỹ Phú Cù L, thị trấn Mỹ T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

2. Lê Thị T, sinh năm 1952 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khóm Mỹ T2, thị trấn Mỹ T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8-2018, bị cáo Nguyễn Văn Đ đang cần số tiền lớn để trả nợ nhưng không có. Khi biết ông Nguyễn Văn D là bạn đang có nhu cầu nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên Đ đưa ra thông tin gian dối là Đ có chị họ tên là Nguyễn Thị L đang định cư, sinh sống tại Hàn Quốc từ năm 2005 muốn chuyển nhượng một phần diện tích đất.

Phần diện tích bị cáo Đ đưa thông tin cần chuyển nhượng là ở thửa 705 và 706 cùng tờ bản đồ số 10, ngang 26,9m x 26m trên đường Nguyễn Văn K, thuộc khóm Mỹ Phú Cù L, thị trấn Mỹ T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (tách từ thửa 97, được Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Lê Văn T, sinh năm 1986, ngụ tại phường X, thành phố Cao L, tỉnh Đồng Tháp, số giấy chứng nhận là CN935580, số vào sổ là CS06397, cấp ngày 24-7-2018). Bị cáo Nguyễn Văn Đ dẫn bị hại Nguyễn Văn D đi xem thực tế phần diện tích đất nói trên và ra giá chuyển nhượng là 448.330.000 đồng. Do tưởng là thật nên bị hại D đồng ý nhận chuyển nhượng.

Khoảng cuối tháng 08-2018, sau khi thỏa thuận chuyển nhượng thì bị hại Nguyễn Văn D đưa cho bị cáo Đ số tiền 200.000.000 đồng.

Đến ngày 24-10-2018, Đ viết giấy thỏa thuận “về việc mua bán đất” với nội dung là Đ đại diện cho chị Nguyễn Thị Linh chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho bị hại Nguyễn Văn D với giá là 448.330.000 đồng. Đồng thời, bị hại D đưa thêm cho Đ số tiền 148.330.000 đồng, tổng cộng Đ nhận là 348.330.000 đồng- được thể hiện trong giấy thỏa thuận.

Đến ngày 17-12-2018, Đ tiếp tục nhận thêm từ bị hại Nguyễn Văn D số tiền 34.000.000 đồng, có viết giấy biên nhận.

Hai ngày sau, Đ tiếp tục nhận thêm của bị hại D 2.000.000 đồng.

Tổng cộng, bị cáo Nguyễn Văn Đ đã nhận tiền trả mua đất từ bị hại Nguyễn Văn D là 384.330.000 đồng.

Số tiền này ông D và Đ đều thừa nhận là tiền để chuyển nhượng đất và người trực tiếp giao tiền là ông D. Sau khi nhận tiền trực tiếp từ ông D, thì Đ sử dụng 250.000.000 đồng để trả nợ cho người em bà con là Nguyễn Thị Thúy N, số tiền còn lại thì Đ tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi giao tiền cho Đ thì ông D nhiều lần yêu cầu Đ thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhưng Đ không thực hiện. Đến tháng 5-2019, ông D tìm hiểu và biết được diện tích đất nhận chuyển nhượng không phải do Linh đứng tên. Ngày 24-3-2020, ông D gửi đơn tố cáo hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ các vật chứng gồm: Giấy thỏa thuận về việc mua bán đất đề ngày 24-10-2018; Biên nhận đề ngày 17-12-2018; Giấy hẹn đề ngày 10-8-2019; Giấy nhận tiền và giấy hẹn đề ngày 30-11-2019.

Sau khi bị ông Nguyễn Văn D tố giác về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị cáo Nguyễn Văn Đ đã trả được số tiền 12.000.000 đồng cho ông D. Ông D yêu cầu bị cáo Đ trả số tiền chiếm đoạt còn lại là 372.330.000 đồng và trả 105.000.000 đồng tiền ông D bị thiệt hại do vay nợ bên ngoài để mua đất, tổng cộng là 477.330.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Văn Đ đồng ý trả lại số tiền theo yêu cầu của ông D.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại Nguyễn Văn D yêu cầu chị Nguyễn Minh H là vợ của bị cáo Đ cùng liên đới trả số tiền đã nhận và bồi thường thiệt hại. Chị H không đồng ý liên đới cùng bị cáo Đ trả số tiền trên và cho rằng không sử dụng số tiền mà bị cáo Đ đã nhận. Ông D không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu chị H liên đới bồi thường cùng bị cáo Đ.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03-7-2020.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 589 và Điều 468 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn D số tiền 477.330.000 đồng (bốn trăm bảy mươi bảy triệu, ba trăm ba mươi ngàn đồng).

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05 tháng 10 năm 2020, bị cáo Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 13 tháng 10 năm 2020, bị hại Nguyễn Văn D có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị xem xét lại bản án sơ thẩm yêu cầu làm rõ việc vay tiền giữa bị cáo Nguyễn Văn Đ và chị Nguyễn Thị Thúy N; làm rõ vợ bị cáo là chị Nguyễn Minh H có phải đồng phạm với bị cáo không? Yêu cầu Tòa án buộc Nguyễn Minh H liên đới bồi thường với bị cáo; làm rõ bị cáo chiếm đoạt tiền của bị hại để làm gì?

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Đ thừa nhận bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả về thửa đất cần chuyển nhượng để bị hại Nguyễn Văn D tin tưởng giao tiền cho bị cáo, nhằm chiếm đoạt 448.330.000 đồng để trả nợ và tiêu xài cá nhân. Bị cáo thừa nhận đã nhận tiền của bị hại D nhiều lần, tổng cộng đã nhận là 384.330.000 đồng. Đến nay, bị cáo trả cho bị hại D được 12.000.000 đồng, còn lại 372.330.000 đồng chưa trả. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại D yêu cầu bị cáo trả 372.330.000 đồng và bồi thường 105.000.000 đồng tiền bị hại D chịu lãi khi vay tiền mua đất do bị cáo lừa đảo, bị cáo đồng ý yêu cầu của bị hại D, đồng ý hoàn trả cho bị hại 477.330.000 đồng. Bị cáo thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp kết án bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là Đ, không oan, sai. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng mức án 09 năm tù là cao, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do bị cáo chỉ mới phạm tội lần đầu.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Nguyễn Văn D thừa nhận các khoản tiền đã giao cho bị cáo Đ, số tiền bị cáo Đ bồi thường trong quá trình điều tra, số tiền bị cáo Đ còn nợ ông như nội dung Bản án sơ thẩm đã nêu. Bị hại D đồng ý về số tiền 477.330.000 đồng mà Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường cho ông, khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là Đ. Bị hại D thừa nhận chỉ có bị cáo Đ và ông thỏa thuận việc mua bán đất, chỉ có bị cáo Đ là người đưa ra giá đất, viết các giấy tờ giao dịch và nhận tiền của ông, chứ không có người nào khác tham gia. Tuy nhiên, bị hại Nguyễn Văn D giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm làm rõ việc vay tiền giữa bị cáo Nguyễn Văn Đ và chị Nguyễn Thị Thúy N là có thật hay không? Làm rõ vợ bị cáo là chị Nguyễn Minh H có phải đồng phạm với bị cáo không? Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm buộc chị Nguyễn Minh H phải liên đới bồi thường 477.330.000 đồng cho ông cùng với bị cáo Đ? Làm rõ bị cáo chiếm đoạt tiền của bị hại để làm gì?

Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nguyễn Minh H khai không biết hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo Nguyễn Văn Đ, chị H không tham gia vào hành vi này. Chị H khai rằng mặc dù chị và bị cáo Đ là vợ chồng nhưng tiền ai người đó sử dụng, hàng hóa chị mua bán trong căn-tin là từ nguồn vốn của cá nhân chị. Các tài sản có giá trị lớn trong gia đình như xe ô tô Chevrolet spark thì chị mượn tiền của người anh bà con và vay thêm ngân hàng để mua, đến nay do không có tiền trả gốc, lãi nên chiếc xe này đã bị ngân hàng thu hồi, còn 02 xe mô tô thì gia đình chị đã mua từ lâu, trước năm 2018, trước khi bị cáo Đ lừa đảo bị hại. Chị Nguyễn Minh H không đồng ý liên đới cùng bị cáo Đ bồi thường cho bị hại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Thúy N bị cáo Nguyễn Văn Đ vay tiền nhiều lần, số tiền cho vay do chị tích lũy, do chị ruột cho và do bạn bè gửi giữ mà có được. Khi cho vay tiền thì chị và bị cáo Đ không viết biên nhận vì là bà con, tin tưởng nhau. Đến khi chị cần tiền để đi thẩm mỹ thì chị có yêu cầu bị cáo trả và bị cáo Đ đã trả cho chị nhiều lần được 250.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm nhận định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Mức án 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Đ là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã có xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Sau khi án sơ thẩm xét xử, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Đ.

Đối với kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D yêu cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Minh H cùng liên đới với bị cáo Nguyễn Văn Đ hoàn trả số tiền mà bị cáo Đ chiếm đoạt là 372.330.000 đồng và 105.000.000 đồng tiền ông D bị thiệt hại là không có căn cứ, vì đây chỉ là những lời trình bày của bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm bị hại cũng không cung cấp được chứng cứ để cho Hội đồng xét xử xem xét. Vì vậy, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo đối với bị hại.

Tại phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Văn Đ không tham gia tranh luận; bị hại Nguyễn Văn D tranh luận đề nghị làm rõ các nội dung mà ông kháng cáo.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn Đ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Văn Đ là người có đầy đủ năng lực hành vi, bị cáo ý thức được việc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mong muốn có tiền để trả nợ và tiêu xài mà bị cáo đã cố ý sử dụng thông tin giả về thửa đất cần chuyển nhượng để bị hại Nguyễn Văn D tin tưởng giao tiền nhận chuyển nhượng đất cho bị cáo. Hành vi của bị cáo Đ đã làm cho bị hại D bị mất đi tài sản, đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại D, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Giá trị tài sản của bị hại D bị Nguyễn Văn Đ chiếm đoạt là 384.330.000 đồng. Vì vậy hành vi của bị cáo phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự. Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 28-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp kết án bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội D trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định do bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại, bị cáo thành khẩn khai báo, về nhân thân đã xét đến việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do chỉ mới phạm tội lần đầu là không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Hơn nữa, mức án 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[3] Xét kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D yêu cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Minh H liên đới cùng bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường cho ông D và xem xét trách nhiệm đồng phạm của chị H. Hội đồng xét xử xét thấy suốt quá trình diễn biến của hành vi phạm tội chỉ có một mình bị cáo Đ thực hiện, không có căn cứ để cho rằng chị H có biết, có tham gia, điều này cũng được chính bị hại Nguyễn Văn D thừa nhận. Vì vậy không có cơ sở để kết luận chị Nguyễn Minh H đồng phạm với bị cáo Đ. Mặt khác, qua đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua xét xử công khai tại phiên tòa, không có cơ sở để kết luận chị H có sử dụng tiền chiếm đoạt từ hành vi phạm tội của bị cáo Đ. Vì vậy không có căn cứ để buộc chị H có trách nhiệm liên đới bồi thường dân sự cho bị hại cùng bị cáo Đ.

[4] Xét kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D yêu cầu làm rõ việc vay tiền giữa bị cáo Đ và bị hại Nguyễn Thị Thúy N, Hội đồng xét xử nhận thấy việc bị cáo Đ vay tiền của chị Nguyễn Thị Thúy N được bị cáo và chị Ngọc thừa nhận, việc bị cáo trả nợ 250.000.000 đồng cho chị N cũng được chị N thừa nhận. Do đó việc vay nợ và trả nợ là có thật, không có tài liệu, chứng cứ để bác bỏ việc vay và trả nợ này.

[5] Ngoài ra cũng không có cơ sở để xác định bị cáo tẩu tán tài sản chiếm đoạt.

[6] Vì vậy, phần trách nhiệm dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường cho bị hại là có cơ sở, nên không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần này.

[7] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[8] Vì bị hại là người cao tuổi nên bị hại được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

[9] Xét thấy phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ chấp nhận.

[10] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ.

Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Văn D.

Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt và về phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo (Ngày 03-7-2020).

3. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 589 và 468 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ có nghĩa vụ trả cho bị hại Nguyễn Văn D số tiền 477.330.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi bảy triệu, ba trăm ba mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bị hại mà bị cáo chưa thi hành thì hàng tháng bị cáo còn phải trả tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành án xong.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-02-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị hại Nguyễn Văn D được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 397/2020/HS-PT ngày 31/12/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:397/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về